Viết bài văn trình bày đóng vai nhân vật kể lại một truyện truyền thuyết Giúp em với ạ

Viết bài văn trình bày đóng vai nhân vật kể lại một truyện truyền thuyết

Giúp em với ạ

2 bình luận về “Viết bài văn trình bày đóng vai nhân vật kể lại một truyện truyền thuyết Giúp em với ạ”

  1. Vào thời Hùng Vương thứ sáu, vợ chồng tôi sống lương thiện ở làng Gióng. Nhưng tuổi đã già mà chưa có lấy một mụn con.

    Một hôm ra đồng tôi thấy có một vết chân to liền tò mò ướm thử, đâu ngờ về nhà lại mang thai. Điều này thật may mắn cho hai vợ chồng tôi. Nhưng tới mười hai tháng sau tôi mới sinh được một bé trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Chúng tôi đặt tên cho nó là Gióng. Nhưng điều đáng buồn là tới năm ba tuổi nhưng con tôi vẫn chưa biết nói cười cũng chẳng biết đi.

    Bỗng một hôm sứ giả nhà vua đến làng thông báo tin giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. Vua cần người tài ra đánh giặc cứu nước, giúp dân. Vừa nghe tin ấy bỗng dưng con tôi cất tiếng nói làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Tôi bán tín bán nghi nhưng cũng làm theo lời con. Khi sứ giả vừa vào tới Gióng liền nói dõng dạc “ Ông về tâu với vua sắm cho to một con ngựa sắt, một cái roi sắt bà một tấm áo giáp sắt ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Từ hôm ấy trở đi con tôi lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, gạo trong nhà không đủ ăn, bà con phải góp gạo để nuôi nó.

    Lúc đó, giặc đã đến chân núi Trâu. Mọi người đều hoảng hốt. Vừa khi ấy sứ giả đem những thứ mà con tôi yêu cầu tới nhà. Gióng vươn vai một cái lập tức biến thành một tráng sĩ oai phong, trèo lên lưng ngựa, phi thẳng tới nơi có giặc. Dưới ngọn roi sắt của con tôi, lũ giặc chết như rạ. Khi roi sắt gãy, Gióng nhổ cụm tre ven đường quật vào quân giặc. Giặc tan vỡ, những kẻ còn sống giẫm đạp lên nhau mà chạy thoát thân.

    Tin thắng giặc Ân vang khắp nước nhưng tôi đợi mãi không thấy con trở về. Sau đó tôi nghe người ta bảo rằng nó đuổi theo giặc Ân chạy tới chân núi Sóc rồi cởi bỏ áo giáp sắt, cả người và ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn đánh giặc của con tôi nên phong là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ngay tại làng. Một số dấu tích ngày nay vẫn còn tìm thấy đó là tre đằng ngà và làng Cháy.

     Nhớ cho mình 5 sao và CTLHN nhé

    Trả lời
  2. Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế ở góc vườn.
    Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì. Hằng ngày, tôi phải mò cua bắt ốc, cày thuê, cuốc mướn để sống. Cây khế trở thành tài sản quý giá nhất và là người bạn thân thiết của tôi. Tôi chăm sóc nó chu đáo, tận tình như người bạn. Vì vậy mà cây khế lớn rất nhanh và chẳng bao lâu đã ra hoa kết quả. Đến mùa khế chín, những chùm khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu. Không thể nào nói hết được niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình tôi. Tôi đã đan những chiếc sọt để ngày mai đem khế ra chợ đổi lấy gạo. Sáng hôm đó, khi vừa thức dậy, tôi đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây và nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Nói rồi chim bay đi. Tôi không tin lắm vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may cho mình một chiếc túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Cả hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống. Cả hòn đảo ánh lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Không hề có một bóng người. Tôi cảm thấy lo sợ, cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về.”. Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền.
    Từ đó, gia đình tôi không còn phải ăn đói mặc rách nữa. Tôi dựng một căn nhà khang trang ngay trong khu vườn, nhưng vẫn giữ lại túp lều và cây khế.
    Tôi dùng số của cải đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cũng không hiểu sao từ bữa đó, chim không còn đến ăn khế nữa. Cây khế bây giờ đã to lớn, toả bóng mát xuống cả một góc vườn. Mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần đến để bày tỏ lòng biết ơn.
    Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một sáng, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Anh đòi tôi đổi toàn bộ gia sản của anh lấy túp lều và cây khế. Tôi rất buồn khi phải chia tay với căn nhà và cây khế. Nhưng trước lời cầu khẩn của anh, tôi đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Tối hôm đó, anh tôi thức cả đêm để may túi mười gang ngày mai đi lấy vàng. Sáng hôm sau, vừa ra tới đảo vàng, anh tôi đã hoa mắt bởi vàng bạc châu báu của hòn đảo. Anh tôi vội nhét vàng vào đầy túi mười gang, vào túi quần, túi áo và mồm cũng ngậm vàng nữa. Trên đường trở về nhà, chim nặng quá, kêu anh tôi vứt bớt vàng xuống biển cho đỡ nặng. Vốn tính tham lam, anh không những không vứt bớt xuống mà còn bắt chim bay nhanh hơn. Nặng quá, chim càng lúc càng mệt. Đôi cánh trở nên quá sức, yếu dần. Cuối cùng, không còn gắng được nữa, chim chao đảo rồi hất luôn anh tôi xuống biển cùng với số vàng.
    Tôi trở lại sống ở nhà cũ, cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ còn quay trở lại nữa… Anh trai tôi đã không thể quay trở về chỉ vì lòng tham vô đáy. Một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới