Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về tình cha con trong tác phẩm chiếc lược ngà t

Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về tình cha con trong tác phẩm chiếc lược ngà trong đoạn có sử dụng câu ghép và thành phần khởi ngữ

2 bình luận về “Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận diễn dịch nêu cảm nhận của em về tình cha con trong tác phẩm chiếc lược ngà t”

  1. Trong văn học Việt Nam và thế giới, các nhà văn, nhà thơ đã dành không ít bút lực để ca ngợi người mẹ – tình mẹ. Song trong thực tế, nếu “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình” thì “Tình cha ấm áp như vầng thái dương”. Tình yêu thương của cha đối với con cũng không kém phần người mẹ. Hình tượng lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao và hình tượng ông Sáu, người cha, người chiến sĩ cách mạng trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đẹp về tình cha.
    Lão Hạc là người nông dân nghèo, tình cảnh của lão Hạc thật bi thương. Vợ lão chết sớm, vì quá nghèo lão không có tiền cưới vợ cho con. Con lão phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, bỏ lại lão bơ vơ cùng con chó vàng ở nhà. Lão bị ốm nặng, làng mất vé sợi, cơn bão đi qua phá hoại hết hoa màu, tuổi già sức yếu chẳng ai muốn thuê lão làm việc nữa. Lão đành bán con chó yêu quý của lão rồi ăn củ khoai, củ ráy, rau má, bữa trai bữa ốc cho qua ngày, tới khi không còn cái gì ăn nữa thì lão ăn bả chó tự tử. Cái chết của lão thật đau đớn thê thảm.
    Tình cảnh bi thương nhưng phẩm chất của lão thật cao quý. Lão luôn day dứt vì không có tiền cưới vợ cho con. Bao tình thương yêu, lão gửi gắm qua con chó Vàng- kỉ vật duy nhất còn lại của đứa con. Cách lão gọi “cậu Vàng”, cách lão chăm sóc, trò chuyện, cưng nựng…con chó Vàng. Lão ở nhà sức tàn lực kiệt nhưng vẫn bòn vườn, ki cóp dành tiền cho con để nó về cưới vợ và có chút vốn làm ăn. Lão chịu đói khổ chứ không tiêu vào số tiền dành dụm, quyết chết để lại mảnh vườn cho con chứ không chịu bán. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo 30 đồng bạc để lo ma chay cho mình, gửi lại mảnh vườn nhờ ông giáo trông nom cho con khi nó trở về.
    Lão Hạc là một người cha tốt, người cha rất mực thương con, hi sinh hết lòng vì con. Dù lâm vào cảnh cùng quẫn nhưng lão vẫn giữ mình trong sạch “đói cho sạch, rách cho thơm”, không làm việc xấu xa như Binh Tư đã nghĩ. Phẩm chất của lão thật cao quý, đáng trọng.
    Đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, ông Sáu cũng như bao người chiến sĩ cách mạng khác phải lìa xa vợ con, gia đình, quê hương đi chiến đấu, bảo vệ nền hòa bình cho đất nước. Chín năm kháng chiến trường kì và đằng đẵng xa con, ông khổ sở, mong mỏi đến nôn nao cái phút giây được gặp lại con, được ôm con vào lòng cho thỏa niềm thương nhớ. Song thật trớ trêu! Cái giờ khắc nhìn thấy con, ông càng vồ vập, cuống quýt bao nhiêu thì đứa con lại lảng tránh, chối bỏ ông bấy nhiêu. Nguyễn nhân là do chiến tranh đã để lại di chứng vết thẹo trên gương mặt ông, đã làm cho con ông không nhận ra cha.
    Xót xa khi con nhận ra cha, cất tiếng gọi ba thì cũng là lúc cha con vĩnh viễn xa nhau. Người cha thân yêu ấy đã mang theo vào chiến trường một mong ước của con: “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Ở nơi rừng rú chiến khu này tìm mua đâu cho được cây lược? Ý nghĩa nhất chính là tự tay cha làm cho con một chiếc lược mới có thể phần nào bù đắp được tình cha những lúc vắng xa.
    Ông Sáu là người cha thầm lặng, đau khổ rất mực thương con. Ở chiến trường, ông quyết dồn tâm huyết để làm cho con một cây lược. Khi kiếm được khúc ngà, mặt ông “hớn hở như đứa trẻ được quà”, những lúc rỗi, ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Khi chiếc lược đã hoàn thành, ông tỉ mẩn gò công khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Nâng niu, trân trọng như một vật báu, ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng mượt”.
    Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân sáng tạo. Sáng tạo một tác phẩm thiêng liêng, cao quý duy nhất về tình cha con. Vì thế, cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà thật kì diệu.
    Đáng tiếc, kỉ vật thiêng liêng ấy chưa kịp trao cho con thì ông Sáu đã hi sinh. Tàn lực cuối cùng ông dồn lên đôi mắt và đưa tay vào túi, móc cây lược ra đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết nhất, như muốn nói, như muốn chuyển giao sự sống, chuyển giao ước nguyện cuối cùng của người cha cho người đồng chí: hãy tiếp tục làm tròn bổn phận của một người cha, hãy gìn giữ mãi tình cha con ruột thịt. Ông Sáu hi sinh, nhưng tình cha con thì không bao giờ chết được. Chiến tranh, sự khốc liệt có thể cướp đi tính mạng, thể xác, không thể cướp đi tình cha con cao quý, sâu nặng. Nó sẽ sống mãi trong chiếc lược ngà mà ông đã dành cho con.
    Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con. Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Cả hai nhân vật đều là biểu tượng sáng ngời cho tình phụ tử sâu nặng: dành cho con tất cả, thậm chí sẵn sàng hi sinh tất thảy vì con.
    Để khắc họa tình cha con, cả hai tác phẩm đều xây dựng được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
    Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lại có những khám phá sáng tạo riêng, độc đáo. Ở “Lão Hạc”, Nam Cao khám phá tình cha con của người nông dân Bắc Bộ trước Cách mạng tháng 8 trước thử thách khốc liệt của cái đói và miếng ăn, của cảnh ngộ khốn cùng, qua đó, tác giả thể hiện niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp, bản chất lương thiện của họ. Ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng khắc sâu chủ đề về tình cha con của người chiến sĩ cách mạng miền Nam trong thử thách khốc liệt của chiến tranh trên cả hai phương diện: tình cha với con và ngược lại, từ đó cho người đọc thấy những nỗi đau tột cùng mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người.
    Cùng viết về tình cha con nhưng cách chọn ngôi kể ở mỗi tác phẩm là khác nhau. Ở “Lão Hạc”, Nam Cao chọn nhân vật tôi – ông giáo là người trần thuật lại câu chuyện. Nhân vật tôi mang hình bóng cái tôi của tác giả đã đi từ dửng dưng, nghi ngờ đến ngạc nhiên, thấu hiểu. Có lúc, tác giả còn xen vào những lời bình luận trữ tình ngoại đề. Giọng điệu trần thuật của tác phẩm , do đó, cũng mang tính chất đa thanh: vừa dửng dưng lạnh lùng, vừa đằm thắm yêu thương, vừa xót xa bi phẫn… Hành trình nhận thức của nhân vật tôi cũng chính là hành trình mà người đọc khám phá những vẻ đẹp nhân cách cao cả của lão Hạc.
    Trong khi đó, ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng để nhân vật tôi là người bạn chiến đấu lâu năm với ông Sáu kể lại câu chuyện cảm động về tình cha con. Do đó, câu chuyện được kể lại bằng giọng điệu thân mật, dân dã, thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu của tình bạn, tình đồng chí, giàu tính nhân văn. – Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng thấm đẫm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, đặc biệt là tâm lí của trẻ thơ. Truyện của Nam Cao giàu chất trữ tình và triết lí.
    Lão Hạc thuộc tầng lớp nông dân cố cùng sống trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Lão tiêu biểu cho số phận người nông dân khốn cùng trước Cách mạng tháng Tám. Cha con phải xa lìa nhau là do đói nghèo, do xã hội thực dân nửa phong kiến dã man tàn bạo, áp bức, bóc lột khiến cho đời sống của họ lâm vào bước đường cùng.
    Còn ông Sáu, cha con phải xa lìa nhau, không nhận ra nhau là do chiến tranh. Tội ác của chiến tranh đã gây bao đau thương tang tóc cho mỗi gia đình Việt Nam. Ông Sáu là người chiến sĩ trung thành với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội. Thương yêu con nhưng vì nghĩa lớn phải ra đi và bị hi sinh.
    Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm có những sáng tạo độc đáo trên là do: bản chất của văn học (phải không ngừng sáng tạo), do sự khác biệt của thời đại, mục đích sáng tác, đặc điểm sáng tác của hai tác giả. – Ý nghĩa của sự tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện tình cha con ở hai tác phẩm: Sự tương đồng góp phần làm nên chất nhân bản, nhân văn của văn học. Sự khác biệt làm nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng của văn học.
    Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu mực. Trong tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, thiêng liêng. Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con. Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Ở trong cảnh ngộ càng khó khăn thì tình cha con càng được tỏa sáng, thiêng liêng và cao quý.
    Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu mực. Trong mỗi tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, cao cả, thiêng liêng biết mấy.

    Trả lời
  2. Thành công nhất của Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn Chiếc lược ngà là đã thể hiện thật cảm động vẻ đẹp tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh. Viết về chủ đề hạnh phúc gia đình bị chia cắt bởi chiến tranh và cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân và dân miền Nam có rất nhiều tác phẩm nổi bật trong thời kì này. Có thể kể đến Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Hòn đất của Ninh Đức,… Thế nhưng, Nguyễn Quang Sáng đã có một lựa chọn thể hiện khá độc đáo. Ông xây dựng một tình huống hiểu nhầm thú vị dựa trên tính cách ngây thơ của trẻ thơ để làm lộ rõ những phẩm chất cao quý của nhân vật. Trong đó, tình cảm cha con thắm thiết được khắc họa chân thành và cảm động.
    Trong cảnh ngộ chiến tranh tình cha con bị chia cắt bởi bao nỗi nhớ thương khi xa cách, bởi sự hiểu lầm đau khổ khi gặp gỡ. Các tình huống truyện dù đã được nhà văn tháo gỡ nhưng mỗi khi đọc lại ta không khỏi hồi hộp và nghẹn ngào.
    Anh Sáu sau bao năm xa cách đã rất xúc động khi gặp lại con. Thế nên, “khi xuồng chưa kịp cập bến anh đã nhanh chân nhảy thót lên” . Và rất nhanh khi ” thấy đứa trẻ trạc chừng 7, 8 tuổi, tóc ngắn ngang vai, mặc áo bông đang ngồi chơi nhà chòi dưới gốc cây xoài trước hiên nhà” bằng linh tính máu mủ ruột rà anh nhận ra ngay là Thu. “Xúc động, anh dang hai tay ra phía trước , cất tiếng gọi giọng lập bập run run ” Thu, con”. Thu bỏ chạy, kêu thét lên. Anh đứng sững đó, “hai cánh tay buông thõng như đôi cánh bị gãy”. Niềm mong đợi của anh đã không như anh mong đợi. Lần thứ nhất, anh thấy thực sự đau khổ khi đứa con duy nhất không vồ vập lấy cha nó khi anh trở về.
    Anh đã đau khổ nhưng cố gắng dằn nỗi tức giận khi con hắt hủi, vô lễ và cương quyết tỏ thái độ không nhận anh là cha. Vì nó là con anh, chắc chắn rồi. Nhưng anh lại không hề nghĩ đến cái nguyên nhân khiến con không nhận anh. Quá vui mừng khiến anh đã quên mất việc làm đó. Anh đắm chìm trong nỗi đau thương mỗi khi con gái có hành động cự tuyệt anh.
    Thu nói rằng “Vô ăn cơm” một cách trống rỗng ,vô tâm. Anh ngồi im. Thu ương bướng tự chắt nước nồi cơm sôi, “anh khe khẽ lắc đầu rồi cười. Có lẽ vì khổ tâm nhưng không khóc được nên anh phải ngồi cười mà thôi”. Anh bất lực và không có cách nào có thể khiến con bé thay đổi.
    Và khi lỡ tay đánh con, anh đã hối hận, đau khổ. Anh đánh con là bởi anh quá giận. Đó là một hành động bộc phát, đường đột và không nên xảy ra. Sau con giận, anh mới nhận ra điều đó. Bé Thu sang nhà ngoại tạo một khoảng trống mênh mông trong lòng anh. Anh hiểu, tất cả là do chiến tranh. Chiến tranh đã tạo nên cuộc chia cách bảy năm trời. bảy năm không có cha ở bên khiến bé Thu không thể dễ dàng chấp nhận lại anh chăng? Nếu điều đó là sự thật có lẽ cũng không làm anh đau lòng đến thế.
    Tình cảm cha con thắm thiết còn thể hiện sâu sắc ở nhân vật bé Thu. Vì yêu cha, Thu đã bướng bỉnh, cương quyết không nhận anh Sáu là cha trong ba ngày gặp gỡ. Bởi vì trong em luôn có một hình ảnh người cha đẹp như trong hình mà mẹ thường đưa cho nó xem. Cha em thật trẻ trung qua tấm hình chụp chung với mẹ. Cha em thật đẹp trong lời kể của mọi người về một người chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ quê hương. Trong thương nhớ của hai mẹ con suốt bảy năm trời. Hình ảnh người cha đó vừa thiêng liêng vừa cao đẹp. Không có gì có thể thay thế được hình ảnh người cha ấy trong lòng nó.
    Khi anh Sáu trở về, gian khổ làm anh già đi. Lại thêm cái vết sẹo khủng khiếp làm mặt anh biến dạng. Điều này thật khác so với sự tưởng tượng của Thu. Bởi vậy, nó hoài nghi và căm ghét kẻ đã xâm phạm đến hình ảnh người cha thiêng liêng trong lòng nó. Nó bướng bỉnh, ương ngạnh bao nhiêu chỉ để bảo vệ tiếng gọi ba thiêng liêng, bảo vệ hình ảnh người cha trong tâm hồn non nớt ngây thơ của nó mà thôi.
    Còn anh Sáu, anh không hề hiểu điều đó. Trái tim anh vẫn nguyên vẹn nhưng vẻ ngoài của anh đã thay đổi khá nhiều. Tất cả mọi người cũng không ai nhận ra. Chỉ có bé Thu, với tâm hồn nhạy cảm của trẻ thơ mới tinh tế đến thế. Thế nhưng, bé Thu sau khi đã hiểu ra nguyên nhân của sự thay đổi khiến cho nó không nhận ra cha. Đêm ấy, nó ân hận, dày vò: “Nó nằm lăn lộn, rồi thở dài như người lớn”. Vết sẹo xấu xí trên gương mặt cha chỉ làm cho Thu thương cha nó thêm mà thôi.
    Trong giờ phút chia tay, bao nhiêu yêu thương được tác giả đặc tả vào trong đôi mắt. “Cái nhìn của nó không ngơ ngác lạ lùng mà như nghĩ ngợi sâu sa” bao nhiêu diễn biến nội tâm xáo trộn bời bời. Có nên chạy ra với cha không? Nếu không nhận cha hôm nay thì cha lại đi biền biệt biết bao giờ gặp lại? Khi anh Sáu đưa mắt nhìn con thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.
    Thật bất ngờ niềm ân hận hối tiếc kìm nén bấy lâu chợt bùng ra trong tiếng gọi “ba” kéo dài thật tha thiết. “Tiếng kêu như xé. Xé không gian im lặng. Xé ruột gan mọi người nghe thật xót xa” . Nó nhảy thót lên, dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Hôn cả lên vết sẹo rồi nghẹn ngào: “không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con” . Ôi, cái hôn đẫm nước mắt trẻ thơ chứa đựng bao nhiêu yêu thương và xót xa ân hận. Cô bé cứng cỏi, ương ngạnh là thế nhưng cách biểu lộ tình cảm hồn nhiên ngây thơ và chân thành biết bao.
    Anh Sáu đã không thể giấu được nỗi xúc động nghẹn ngào khi con gái ôm chặt lấy ông nghẹn ngào. Anh đã khóc khi được con gọi mình là “ba” và hôn cha cùng khắp. Hôn cả lên vết sẹo. Anh sung sướng không sao kể xiết. Tất cả mọi đau khổ, hờn giận, thất vọng bấy lâu chợt tan biến. Trong anh, một cảm giác êm dịu cứ mơn man khắp cơ thể. Trái tim người cha rung động mãnh liệt ngay giây phút thiêng liêng ấy.
    Anh Sáu mang tình thương nhớ con lên đường. Ở chiến khu, anh dồn bao nhiêu yêu thương, nhớ nhung vào việc cưa từng chiếc răng lược. Anh bày tỏ tình yêu nhớ con trong lời đề tặng: “Yêu nhớ tặng con Thu của ba” Trước khi chết, tình cha con khiến anh không nhắm mắt được và chỉ yên lòng khi ông Ba, đồng đội thân thiết hứa: “Anh yên tâm, tôi sẽ mang cây lược này về trao tận tay cho cháu” anh mới nhắm mắt đi xuôi.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới