Viết bài văn phân tích đoạn 3 bài thơ Vội Vàng (Có thể tham khảo nhưng ko chép trên mạng ạ) Giúp mình với

Viết bài văn phân tích đoạn 3 bài thơ Vội Vàng
(Có thể tham khảo nhưng ko chép trên mạng ạ)
Giúp mình với

2 bình luận về “Viết bài văn phân tích đoạn 3 bài thơ Vội Vàng (Có thể tham khảo nhưng ko chép trên mạng ạ) Giúp mình với”

  1. Giải đáp & Lời giải chi tiết
    Câu hỏi : Viết bài văn phân tích đoạn 3 bài thơ Vội Vàng
                                                      Câu trả lời cụa tớ ( đã qua tham khảo ) :
    Tuổi trẻ là gì mà cứ khiến ta phải nuối tiếc? Phải chăng vì tuổi trẻ quá đẹp, quá rực rỡ khiến ta chỉ mong nó ngưng đọng mãi không thôi. Có lẽ chính vì vậy mà Xuân Diệu như bâng khuâng tiếc cả đất trời khi tuổi trẻ chẳng đôi lần thắm lại. Với những tứ thơ đầy cảm xúc mãnh liệt, có thể nói Vội vàng của Xuân Diệu đã thể hiện một cái tôi rất riêng cùng những suy ngẫm tinh tế về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và sức sống mãnh liệt.
    Nếu như thơ xưa ưa cái đẹp thanh trong vị, đạm trong sắc, cái đẹp thiên về sự hài hòa, cân đối, giản dị, rất mực cổ điển thì đến Xuân Diệu, cái đẹp phải thật thắm sắc đượm hương, vậy nên hồn thơ ấy mới khát vọng táo bạo muốn “tắt nắng, buộc gió”. Âu đó cũng là khát vọng giữ lại sắc hương cho dương gian này. Bức tranh thiên nhiên tiếp theo được bày ra trong thơ Xuân Diệu là một bữa tiệc trần gian lộng lẫy, rực rỡ, đầy thanh âm và màu sắc:
    “Của ong bướm này đây tuần tháng mật
    Này đây hoa của đồng nội xanh rì
    Của yến anh này đây khúc tình si
    Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
    Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần..”
    Rõ ràng, nếu như trước Xuân Diệu, Nguyễn Du từng quan niệm, cuộc đời như một cuộc bể dâu, bà huyện Thanh Quan thì ví nó là cuộc hí trường, các nhà thơ như Thế Lư trong phong trào thơ Mới cũng chán bởi mĩ lệ trần gian, mà đưa mắt tìm nguồn thơ trong chốn bồng lai tiên cảnh xa xôi diệu vợi. Nhưng đến Xuân Diệu, ông thấy cuộc sống vẫn đẹp, vẫn rực rỡ như một bức tranh xuân đầy gọi mời quyến rũ với đủ màu sắc “xanh rì”, rộn rã những âm thanh..Bằng cách đó, “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”, để trân trọng hơn vẻ đẹp của bức tranh trần thế, để cùng hòa mình đắm say và khúc tình si của chính dương gian này. Đặc biệt để ý so sánh của Xuân Diệu “tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khiến câu thơ trở nên táo bạo hơn, tháng Giêng non tơ mơn mởn đầy sức sống kia sao mà thật quyến rũ gọi mới. So sánh ấy cũng phần nào như hé mở cho ta thấy hồn thơ Xuân Diệu, đôi mắt của Xuân Diệu nhìn trần thế như đôi mắt của một vị khách tình si, “cặp mắt xanh non và rờn biếc”, như muốn bao luyến cả nhân gian này. Đồng thời cũng thấy cái mới của Xuân Diệu ở đây đó là ông không dùng thiên nhiên làm điểm tựa để so sánh với con người như trong thơ trung đại, mà ngược lại thiên nhiên lại được so sánh với con người, con người là chuẩn mực để so sánh với thiên nhiên. Vậy nên đoạn thơ tuy ngắn gọn, nhưng lại phác lên những nét vẽ để ta thấy nét mới mẻ, cách tân của hồn thơ Xuân Diệu.
    Chảy tràn theo dòng cảm xúc ấy, vì cuộc sống này đẹp như một vườn xuân, đầy gọi mời, hấp dẫn, nên nhà thơ cũng tiếc nuối phần nào khi chứng kiến sự chảy trôi của thời gian, đặc biệt là sự chảy trôi của đời người, của tuổi trẻ:
    “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
    Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
    ..Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
    Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
    Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
    Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
    Trong thơ trung đại, các cụ ta quan niệm thời gian tuần hoàn, do đó không cảm thấy hối hả, hay lo lắng trước sự chảy trôi của thiên nhiên, đất trời và đời người. Nhưng đến thơ Mới, mà cụ thể là trong Vội Vàng ta thấy rõ, Xuân Diệu nhìn thấy sự chảy trôi của thời gian và sự ra đi của tuổi xanh trên con người, trong khi tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, quý giá nhất nên thành ra tiếc nuối bâng khuâng. Sự chia ly được diễn ra trên hầu khắp vạn vật, sự ra đi của thời gian với con người, của thời gian với cả chính thời gian, sự chia ly nhuốm trong cảnh vật “tháng năm rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn biệt, chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi..”. Nhưng cũng chính từ cái nhìn mới mẻ trong quan niệm về thời gian ở đoạn thơ này, ta thấy một Xuân Diệu đậm chất “vội vàng”, ông nhìn thấy rõ “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, nên vội vàng lao vào cuộc đua với thời gian, sống đã đầy đến từng khoảnh khắc để được tận hưởng, tận hiến một cách trọn vẹn, bồng bột, vô tư:
    “Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm
    Ta muốn ôm
    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
    Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
    Và non nước, và cây, và cỏ rạng
    Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
    Cho no nê thanh sắc của thời tươi
    Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”
    Cụm từ “ta muốn ôm” đứng giữa dòng thơ đầy ham hố, như thể hiện khát khao muốn ôm cho trọn, cho hết, cho đủ đầy cuộc sống ngập tràn thanh sắc trần gian ngoài kia. Các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu, cắn” đã lột tả một cách mãnh liệt hồn thơ cuống quýt, vồ vập vội vàng của Xuân Diệu. Những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Ta như cảm nhận được nguồn sống, sức sống phập phồng trong trái tim thơ của ông, “Sức sống như máu căng lên trong lộc loài nai, như những mầm non háo hức bước ra khỏi thân cây, ngoạm sự sống để là êm nỗi khát thèm”. Đúng như Hoài Thanh từng nhận định: Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lãnh lẹo này. Trong những câu thơ cuối, ta thấy Xuân Diệu như con ong hút nhụy đang phơi phới hương say của mật ngọt,, lại thấy thi sĩ như người tình trong cuộc tình chếnh choáng men say.
    Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu, Xuân Diệu ở sự vồ vập, sôi nổi, cuống quýt đầy giục giã của nhà thơ hãy sống và tận hưởng cuộc sống. Xuân Diệu ở cặp mắt xanh non rờn biếc âu yếm nhìn nhân gian, và Xuân Diệu ở những ngôn từ như đằm cả đời thơ, trái tim thơ, nhịp thơ vào trong đó.
                         @NguyenLeeDucManh16th03 

    Trả lời
  2. Hành trình của đời người đi cùng với thời gian phiêu lãng. Với tình cảm yêu mến, trân trọng nhà thơ – chàng trai trẻ hiền hậu và say mê tóc như mây vướng trên đài trán ngây thơ mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng một tấm lòng yêu đời. Chàng đi trên đường thơ hái những bông hoa gặp dưới bước chân những hương sắc nảy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Chính vì vậy mà trong bài Tựa viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu, nhà thơ Thế Lữ đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”.
    Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn đầy mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì.
    Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà Thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với:
    Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
    Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.
    (Mùa xuân chín)
    Và Nguyễn Bính với:
    Mùa xuân là cả một mùa xanh
    Trời ở trên cao lá ở cành.
    (Mùa xuân xanh)
    Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi đang căng tràn nhựa sống.
    Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai sau. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kì. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
    Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu gầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mâỵ trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lí thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
    Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quýt kia là sự cuồng nhiệt với đời:
    Ta muốn ôm
    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
    Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
    Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
    Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấy nhau để tạo theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: “muốn ôm” “muốn riết” “muốn say”, “muốn thâu”; lại còn: “một cái hôn nhiều” chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “và” lại có đến ba từ “và” ở giữa câu thơ. Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuồng quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống:
    Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
    Cho no nê thanh sắc của thời tươi
    – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
    Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động: “ôm”, “riết” “say” “thâu” “hôn”, “chếnh choáng” “đã đẩy” “no nê”, ‘cắn”, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình. Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ.
    Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và chàng thi sĩ choáng men say đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:
    Trong hơi thở chót dâng trời đất
    Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.
    (Không đề)
    Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: Phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về tấm lòng trẩn gian của một người thơ yêu đời mê đắm. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si? Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.
     đây là bài viết của tớ cậu có thể tham khảo. mong cậu đánh giá 5 sao với ctlhn ạ,cảm ơn cậu

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới