Hãy viết 1 đoạn văn phân tích khổ thơ sau : Khi trời trong , gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá .

Hãy viết 1 đoạn văn phân tích khổ thơ sau :
Khi trời trong , gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá .
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo , mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng , bao la thâu góp gió…
Em cần gắp ạ mong mọi người giúp

2 bình luận về “Hãy viết 1 đoạn văn phân tích khổ thơ sau : Khi trời trong , gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá .”

  1. Bài làm
    Tác giả Tế Hanh đã rất thành công trong việc khắc hoạ bức tranh cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá khi bình minh lên. Sử dụng biện pháp tu từ liệt kê ” trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng “, tác giả vẽ ra trước mắt người đọc một bầu không gian khoáng đạt, cao rộng, thời tiết đẹp và rất phù hợp cho đoàn thuyền ra khơi. Thời tiết thuận lợi như vậy, ” dân trai tráng ” – một hình ảnh khoẻ khoắn mà tràn đầy sức sống và năng lượng của người ngư dân đánh cá thật mạnh mẽ, bắt đầu bơi thuyền, bắt đầu một buổi đánh cá. Và Tế Hanh đã đặc tả hình ảnh con thuyền và cánh buồm qua những câu thơ cuối khổ. Cụ thể ở đây, chiếc thuyền và cánh buồm là những hình ảnh sâu sắc và mang giá trị biểu cảm rất mạnh mẽ. Khéo léo trong việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh hình ảnh chiếc thuyền với con tuấn mã cùng phép tu từ nhân hoá ” hăng “, ta có thể thấy một con thuyền dũng mãnh đang băng băng rẽ sóng, giúp người ngư dân vươn khơi bám biển, chinh phục đại dương bao la. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ với một loạt động từ mạnh “phăng”, ” vượt “, nhà thơ đã khẳng định sự mạnh mẽ cũng như sức mạnh của người ngư dân và khao khắt chinh phục đại dương, biển cả. Hình ảnh cánh buồm cũng được tác giả rất chú trọng thông qua việc sử dụng phép so sánh đặc biệt cái cụ thể với cái trừu tượng, người ngư dân trong bức tranh đầy nắng và gió ấy như cảm nhận được linh hồn quê hương đang dõi theo để chở che họ, giúp họ được ra khơi bình an. có thể thấy, hình ảnh cánh buồm rất quen thuộc nhưng lại khơi gợi được sự lớn lao kì vĩ nhưng cũng không kém phần thơ mộng. Qua đó thể hiện sâu sắc tình yêu cũng như niềm tin dành cho quê hương của Tế Hanh. 
    ** Nếu bạn hài lòng với câu trả lời của mình thì vote 5* và CTLHN nha. Chúc bạn học tốt !

    Trả lời
  2. Tình yêu quê hương là một nét rất đẹp của hồn thơ Tế Hanh. Năm 1939, vừa tròn 18 tuổi, đang học Trung học ở Huế, ông viết bài thơ “Quê hương” gửi gắm bao tình thương nhớ, tự hào. “Làng tôi” mà nhà thơ trìu mến nhắc tới là một làng chài nằm ở hạ lưu sông Tra Bồng, thuộc huyện Bình Dương, tỉnh Quảng Ngãi.
    Sau hai câu đầu giới thiệu quê hương thân yêu của mình là một làng chài
    “cách biển nửa ngày sông”, tác giả nhắc lại cuộc sống lao động ra khơi đánh cá và cảnh dân làng tấp nập đón đoàn thuyền trở về bến sau một chuyến ra khơi gặp nhiều may mắn. Đoạn thơ gợi lên những hoạt cảnh thật đẹp và đáng yêu:
    “Khi trời trong,gió nhẹ, sớm mai hồng … Dân trai tráng bơi thyền đi đánh cá.”.
    Thời điểm đoàn thuyền ra khơi là một bình minh lí tưởng: “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”. Bầu trời trong sáng, không một gợn mây, gió nhè nhẹ thổi, ánh hồng bình minh phớt hồng chân trời. Khung cảnh ấy dự báo một chuyến ra khơi gặp trời êm biển lặng. Những chiếc thuyền buồm là biểu tượng cho sức mạnh và khí thế ra khơi đánh cá của đoàn trai tráng làng chài:
    “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
    Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang”.
    “Hăng” nghĩa là hăng hái, hăng say gợi tả khí thế ra khơi vô cùng mạnh mẽ, phấn chấn. Con thuyền được so sánh “hăng như con tuấn mã” là một so sánh độc đáo. Tuấn mã là ngựa tơ, ngựa khỏe, ngựa đẹp và phi nhanh. Những con thuyền lướt sóng như đoàn tuấn mã phi như bay với khí thế hăng say, với tốc độ phi thường. Những chiếc mái chèo từ cánh tay của “dân trai tráng” như những lưỡi kiếm dài, to lớn chém xuống, “phăng” xuống mặt nước, đẩy con thuyền vượt trường giang một cách “vội vã”, “mạnh mẽ”. Trước đây, nhà thơ viết: “Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang”, nhưng sau này, tác giả thay chữ “mạnh mẽ” bằng chữ “vội vã”. Có lẽ vừa diễn tả một chuyến ra khơi hối hả, khẩn trương, vừa để hiệp vần: tiếng “vã” vần với tiếng “mã” làm cho vần thơ giàu âm điệu gợi cảm. Hình ảnh thứ ba là cánh buồm. Cánh buồm nâu dãi dầu mưa nắng, sương gió biển khơi nên đã trắng bạc, thành “chiếc buồm vôi”:
    “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
    Rướn thân trắng bao la thâu góp giỏ”.
    “Trương” là “giương” lên cao to, được gió thổi căng phồng đê “bao la thâu góp gio”. Lần thứ hai, Tế Hanh sáng tạo nên một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp: “Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng”. Cánh buồm tượng trưng cho sức mạnh và khát vọng ra khơi đánh cá, chinh phục biển để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cánh buồm – mảnh hồn làng – ấy còn là niềm hi vọng to lớn của làng chài quê hương. Chữ “rướn” là từ gợi tả, đặc sắc. Con thuyền, cánh buồm như ưỡn ngực ra, hướng vẻ phía trước, xốc tới với sức mạnh to lớn, với khí thế hăm hở phi thường, vượt qua mọi trở lực, khó khăn.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới