1 bình luận về “Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt”
Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Bằng Việt sáng tác không nhiều nhưng thơ của ông để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với vẻ đẹp giản dị. Bài thơ “Bếp lửa” viết về tình cảm bà cháu rộng hơn là tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước.
Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành học luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bài thơ là lời tâm sự với người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về cho người bà. Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.
Khổ đầu nói về hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.
Điệp từ “một bếp lửa” gây ấn tượng cho người đọc về hình tượng trung tâm của tác phẩm và cũng nhấn mạnh cảm xúc dâng trào trong lòng cháu, khơi nguồn cho nỗi nhớ về bà. Hình ảnh bếp lửa hiện lên trong thơ vừa quen thuộc gần gũi vừa đơn sơ giản dị. Từ láy “chờn vờn” diễn tả hình ảnh bập bùng lay động của ngọn lửa trong sương sớm. Đó cũng là hình ảnh vóc dáng chịu thương chịu khó của bà.
Hai tính từ “ấp iu”, “nồng đượm” gợi liên tưởng đến hình ảnh bàn tay khéo léo chăm chút của người nhóm lửa và tính chất ấm nóng của ngọn lửa. Hơn thế nữa đó còn là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm yêu thương, ấm áp, những chăm lo tỉ mỉ của bà dành cho cháu để rồi từ đó cảm xúc về bà được bộc lộ bằng một lời nói chân thành tha thiết “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, chữ “thương” đi với “bà” là 2 thanh bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
Bốn khổ thơ tiếp nói về những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa.
Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm kể về những kỉ niệm tuổi thơ:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc chân thành và những kỷ niệm chân thực sinh động từ cuộc đời Bằng Việt. Bố mẹ bận công tác nên tác giả đã phải ở cùng bà. Câu thơ mở đầu có lỗi diễn đạt thật sâu sắc. Dù không trực tiếp miêu tả sự gắn bó giữa cháu và bà nhưng hình ảnh hoán dụ “mùi khói” vẫn cho thấy tình cảm yêu thương gần gũi giữa hai bà cháu gắn liền với hình ảnh bếp lửa.
Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” kết hợp với hình ảnh so sánh, đảo ngữ “Khô rạc ngựa gầy” gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết đói đầy trên đường làng. Nhà thơ Bằng Việt với hình ảnh hết sức tiêu biểu đã gợi cho ta thấy một quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước trong đó có cả tác giả. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh đầy lãng mạn bay bổng của một thời thơ ấu. Tất cả chỉ còn lại những hình ảnh thương tâm, khốn khổ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Những năm tháng ấy gây một ấn tượng sâu đậm lay động hồn thơ – ấn tượng về khói bếp “hun nhèn mắt” để nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Thật xúc động vì cháu luôn ở bên bà nên đã quen với mùi khói và cho đến bây giờ cháu vẫn không quên mùi khói ấy, không quên được lửa nghĩa là cháu vẫn luôn nhớ đến bà. Bà trở thành một phần trong ký ức tuổi thơ của cháu là biểu tượng của tình cảm gia đình và tình yêu quê hương trong trái tim cháu. Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của người cháu như hòa quyện quá khứ và hiện tại như đồng hiện lên trên những dòng thơ.
Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của nhiều gia đình Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp nên cháu đã phải sống với bà. Đó là khoảng thời gian cháu nhận được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà. Tuy vất vả khó khăn nhưng đầy tình yêu thương.
Tám năm cháu sống cùng bà là khoảng thời gian khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đầy chăm chút của bà.
Đó là những năm tháng hồn nhiên trong sáng vô tư qua hình ảnh tâm tình với tiếng chim tu hú:
“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Tiếng chim tu hú âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng vải chính đỏ cành. Tiếng chim tu hú như giục giã như khắc khoải điều gì da diết lắm khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương về tám năm kháng chiến chống Pháp “Mẹ cùng cha công tác bận không về” bà vừa là cha mẹ. Nó còn gợi về những năm tháng thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa được sống trong tình yêu thương cưu mang đùm bọc trọn vẹn của bà: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la sự chăm chút nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ bà – cháu được điệp lại bốn lần đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha nghĩa mẹ, ơn thầy.
Tình yêu sự kính trọng bà của người cháu được thể hiện chân thành sâu sắc qua câu thơ:
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện tiếp tục ở cuối câu thơ với câu hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên nhữn cánh đồng xa?”
Hai câu thơ gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát được ấp ủ, che chở. Đứa cháu được sống trong tình yêu thương đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày được bà yêu thương chăm chút bấy nhiêu. Trong hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.
Kỷ niệm tuổi thơ của cháu còn là những ngày tháng chiến tranh. Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng sáng lên những phẩm chất cao đẹp:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh. Chiến tranh để lại nhiều đau thương mất mát gian khổ và thiếu thốn. Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ kiên cường không kêu ca phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của bà với cháu:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà đã gồng mình lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả tiền tuyến. Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hy sinh.
Hai khổ thơ tiếp theo là những suy ngẫm của cháu về cuộc đời bà và về bếp lửa.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến suy ngẫm. Từ những kỷ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu thương chăm sóc bên bếp lửa quê hương người cháu suy ngẫm về bếp lửa và cuộc đời bà.
“Rồi sớm rồi chiều một bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Điệp từ “rồi” diễn tả quy luật của thời gian đồng thời nhấn mạnh nỗi lam lũ của bà. Từ “bếp lửa” mang tính chất cụ thể gắn liền với cuộc sống quen thuộc mỗi ngày. Bây giờ trở thành ngọn lửa với ý nghĩa ẩn dụ khái quát sâu sắc. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, sự chăm chút của bà dành cho con cho cháu. Nghệ thuật điệp ngữ và điệp cấu trúc nhấn mạnh niềm xúc động dâng trào trong lòng cháu nghĩ về bếp lửa nghĩ về tình yêu thương của bà.
Từ ý nghĩa của hình ảnh ngọn lửa cháu tiếp tục suy ngẫm về bà và cuộc đời bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
………………………………..
Ôi kỳ lạ thiêng liêng bếp lửa”
Từ láy “lận đận” được đảo ra đầu câu thơ kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc và trong hồi ức của cháu về cuộc đời lam lũ khó nhọc của bà. Bà nhóm bếp không chỉ mỗi sớm mỗi chiều mà còn là mỗi năm mỗi tháng suốt cả cuộc đời và vất vả tảo tần như thế.
Điệp từ “nhóm” và phép điệp cấu trúc diễn tả những công việc mỗi ngày của bà. Đó là hành động nhóm lửa để “Thổi nồi khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Đó chính là những biểu hiện chăm chút yêu thương của bà dành cho con cháu. Từ đó động từ nhóm còn mang ý nghĩa ẩn dụ. Nghĩa là khơi dậy tình yêu thương trong lòng mà hơi dài những kỷ niệm đẹp tuổi thơ của cháu.
Đoạn thơ kết lại bằng một câu cảm thán “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Bếp lửa thiêng liêng vì nơi đó động mãi tình cảm yêu thương của bà dành cho cháu. Bếp lửa kì lạ vì không gì có thể dập tắt được sự ấm áp của nó và tình bà cháu. Bếp lửa nhỏ nhoi khiêm nhường ở một góc nhà nhưng cũng lại là nơi duy trì sự sống cho gia đình cũng như bà là chỗ dựa tinh thần cho con cháu. Bếp lửa nhỏ nhoi khiêm nhường ở một góc nhà nhưng cũng lại là nơi duy trì sự sống cho gia đình cũng như bà là chỗ dựa tinh thần cho con cháu. Hai tính từ kỳ lạ và thiêng liêng được đảo lên đầu câu kết hợp với một dấu gạch ngang như là một khoảng lặng thể hiện niềm xúc động dân trào của cháu khi nghĩ về công ơn của bà đó là thái độ trân trọng biết ơn công lao dạy dỗ thiêng liêng cao cả của bà.
Khổ cuối trở lại hiện tại giờ cháu đã đi xa đã trưởng thành nhưng vẫn nhớ về bà và bếp lửa.
“Giờ cháu đã đi xa có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả
Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”
Từ đó được lặp lại 3 lần kết hợp với hàng loạt hình ảnh liệt kê ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa chăm nhà, niềm vui trăm ngả gợi tả một thế giới rộng lớn những chân trời rộng mở và hạnh phúc mà cháu đã đi qua đã trải nghiệm. Từ “nhưng” tạo nên sự tương phản đối lập dù có đi xa đến đâu thì cháu vẫn luôn có một nơi để nhớ về chính là bà và bếp lửa giản dị khiêm nhường mà ấm áp.
Kết thúc bài thơ là một câu hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” nỗi nhớ thương da diết của cháu về bà trong hoàn cảnh cháu đi xa quê hương tình cảm của bà tình cảm gia đình đã trở thành tình yêu quê hương đất nước trở thành điểm tựa tinh thần cho cháu trên những chặng đường đời.
Với ngôn ngữ giản dị trong sáng kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận đặc biệt là xây dựng hình ảnh bếp lửa gợi hình gợi cảm. Bài thơ là một dòng chảy êm đềm nhẹ nhàng đưa mỗi người trở về với những ký ức tuổi thơ tươi đẹp. Qua đó tác giả cũng bộc lộ tấm lòng kính yêu trân trọng. Và cả sự biết ơn đối với bà đối với quê hương đất nước.
Bài thơ nhắc nhở mỗi con người chúng ta về trách nhiệm tình cảm gắn bó với gia đình quê hương đất nước.
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe