(Đề số 1) I. ĐỌC – HIỂU (5,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu bên dưới:

(Đề số 1)

I. ĐỌC – HIỂU (5,0 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu bên dưới:

Ngạn ngữ có câu: thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời gian không mua được. Thế mới biết vàng có giá trị mà thời gian là vô giá.

Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh, nếu kịp thời chạy chữa thì sống, để chậm là chết.

Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi một anh bộ đội mà xem, trong chiến đấu, biết nắm bắt thời cơ, đánh địch đúng lúc là thắng lợi, để mất thời cơ là thất bại.

Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hóa đúng lúc là có lãi, không đúng lúc là thua lỗ.

Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì, thì học mấy cũng không giỏi được.

Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho bản thân và cho xã hội. bỏ phí thời gian thì có hại và về sau hối tiếc cũng không kịp.

(Phương Liên Ngữ văn 9, Tập 2, NXB Giáo dục)

Câu 1. Hãy xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính của văn bản (1,0 điểm)

Câu 2. Hãy chỉ ra 01 cụm từ trong văn bản nêu khái quát giá trị của thời gian ? (1,0 điểm)

Câu 3. Theo tác giả, thời gian có những giá trị nào? (1,0 điểm)

Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về câu: Nhưng vàng thì mua được mà thời gian thì không mua được? (1,0 điểm)

Câu 5. Qua văn bản, anh/ chị rút ra bài học gì cho bản thân (viết 3-5 câu) (1,0 điểm)

II. LÀM VĂN (7.0 điểm) 

Anh/chị hãy phân tích chi tiết nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (Ngữ văn 12, Tập 2) để làm rõ tấm lòng nhân hậu và niềm tin bất diệt vào sự sống ở nhân vật bà cụ Tứ.

1 bình luận về “(Đề số 1) I. ĐỌC – HIỂU (5,0 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu bên dưới: </”

  1. I/. Đọc – hiểu.
     Câu 1: – Phong cách ngôn ngữ chính được sử dụng trong văn bản.
    +, Chính luận.
    – Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
    +, Nghị luận chứng mình.
     Câu 2: – 1 cụm từ trong văn nêu khái quát giá trị của thời gian.
    +, Thời gian là sự sống.
     Câu 3: – Theo tác giả, thời gian có những giá trị.
    +, Thời gian là sự sống
    +, Thời gian là thắng lợi
    +, Thời gian là tiền
    +, Thời gian là tri thức
     Câu 4: – Câu “Nhưng vàng thì mua được mà thời gian thì không mua được” có thể hiểu như sau: Thời gian quy như vàng, nhưng vàng thì mua được còn thời gian trôi thì sẽ không bao giờ trở lại nên thời gian rất quý
     Câu 5: – Khi chúng ta biết tiết kiệm và sử dụng quỹ thời gian hợp lí, chúng ta sẽ làm được nhiều việc có ích cho bản thân mình và xã hội, đồng thời không bỏ lỡ những cơ hội tốt, quý giá trước mắt. Thời gian tuy vô hạn nhưng cũng hữu hạn, mỗi chúng ta hãy biết trân trọng thời gian mỗi ngày và sống có ích cho xã hội. Chính những điều đó không chỉ để lại cho chúng ta thêm kinh nghiệm sống quý báu mà còn ta làm nên những điều mang lại nhiều ý nghĩa cho chính cuộc sống của mình.
    II/. Làm văn.
         Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim của người đọc không phải là những trang viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những “chi tiết đắt” , là điểm sáng thổi bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết “bát cháo hành” đầy tính nhân văn trong truyện ngắn “Chí Phèo”, và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “Nồi cháo cám” vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết “Nồi cháo cám” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
        “Vợ nhặt” là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ “Nồi cháo cám” ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và cũng đẩy tình  yêu thương và lòng vị tha của ngưởi mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945 dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
        Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một, nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người.
      “Nồi cháo cám” không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của “lễ ra mắt con dâu”, đáng nhẽ ra như bà cụ Tứ đã nói “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm 1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
      Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ. Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.
      Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh “nồi cháo cám” khiến người đọc không kìm nổi xúc động “bà lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói”. Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính “nồi cháo cám” ấy:
     “Chè khoái đấy, ngon đáo để” và “Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
       Chi tiết “nồi cháo cám” vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực “nồi cháo cám” tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
      Bên cạnh đó, “nồi cháo cám” còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con.
      Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết “nồi cháo cám” còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây là một ch tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình, khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
      Gấp lại trang sách, hình ảnh “nồi cháo cám” của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm 1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới