Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong khổ thơ sau : ” Tâ

Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong khổ thơ sau :
” Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viên xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành ”

1 bình luận về “Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong khổ thơ sau : ” Tâ”

  1. Đại thi hào người Nga Puskin từng nói: “Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỷ niệm, có khi là từ một nỗi nhớ quặn lòng.”  Nếu như trong bài thơ “Lên Cấm sơn” của Thôi Hữu đã viết nên những vần thơ đẹp đẽ về tình đồng chí, đồng đội trong nỗi nhớ “chơi vơi” thì ta cũng thấy được điều ấy qua thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Nhắc đến ông người ta liền nhớ đến một nhà thơ phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa, thường lấy cảm hứng văn chương từ hình ảnh người lính và quê hương xứ Đoài của ông. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh trong tình cảm với nỗi nhớ “chơi vơi” cả đất trời, tác phẩm của Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ dữ dội và mỹ lệ. Ta có thể thấy rõ điều ấy qua đoạn thơ:
    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
    Quân xanh màu lá dữ oai hùm
    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
    Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
    Áo bào thay chiếu, anh về đất
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
    Nếu như những khổ thơ trước đó, tác giả chủ yếu khắc hoạ vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội cũng rất thơ mộng, huyền ảo. Nhìn ở góc đo hội hoạ thì Tây Bắc giống như một bức tranh vừa sắc nét, vừa huyền ảo, được hoà vào những nỗi nhớ ám ảnh tâm trí đến khuôn nguôi, da diết, thăm thẳm nhớ thương của tác giả. Nhớ từ nơi kháng chiến, từ những ngày hành quân vất vả “gục súng bỏ quên đời”, đến những đêm liên hoan văn nghệ tưng bừng, và con người Tây Bắc thì ở khổ thơ thứ ba này “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…..Sông Mã gầm lên khúc độc hành.” tác giả chủ yếu khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến vừa lãng mạn nhưng cũng rất bi tráng. 
    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
    Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
    Hình ảnh “không mọc tóc” gợi lên cho chúng ta nhiều suy nghĩ, có thể người lính không mọc tóc vì ở một nơi rừng thiên nước độc, thuốc men không có, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn lại thêm căn bệnh sót rét rừng đã làm cho tóc của người lính Tây Tiến không còn nữa. Nó cũng là hình ảnh tả thực về sự gian lao, khổ cực khi hành quân, chúng ta cũng có thể thấy điều ấy qua bài Đồng Chí của Chính Hữu: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.” Khi nói về người lính là những nét vẽ rất gân guốc Quang Dũng không hề che giấu hiện thực khốc liệt, khó khăn ấy nhưng qua ngòi bút tài năng ông, những câu thơ ấy, những hiện thực khó khăn ấy trở thành khẩu khí của người lính Tây Tiến. Ta cũng thấy được tác giả đã sử dụng cách nói rất chủ động, “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”. Điều đó có thể hiểu rằng người lính chủ động không mọc tóc chứ không phải tóc không thể mọc vì căn bệnh sót rét kia. Qua đó càng thấy rõ được sự oai phong, dữ dội của những người lính “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Trái lại với dáng vóc xanh xao, vàng vọt tinh thần của của họ “dữ oai hùm”. Căn bệnh sót rét ấy làm sao có thể ngăn cản được lí tưởng, những khát khao dành lấy hoà bình, độc lập cho đất nước, dân tộc trong lòng họ, họ như con hổ nơi rừng thiên. Ở hai câu thơ này ta thấy được sự sắc sảo, cách dùng từ vô cùng độc đáo của Quang Dũng thay vì dùng từ “đoàn quân”, ông dùng từ “đoàn binh”, khi đọc lên sẽ cho người đọc cảm nhận được sự mạnh mẽ, khí thế và trang trọng hơn. Quả đúng là “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.” từng câu từng chữ ở mỗi câu thơ đều chứa đựng những cảm xúc khó tả, một vẻ đẹp bi tráng, lãng mạn, khi những lính không còn là nạn nhân mà trở nên chủ động, ngạo nghễ. 
    Gạt bỏ đi những thiếu thốn, khó khăn, tác giả đã cho thấy tâm hồn người lính rất lãng mạn, đối lập hoàn toàn khi ở nơi chiến trường khốc liệt:
    “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
    Hai từ “mắt trừng” thể hiện một khí thế đầy quyết tâm, dữ dội, oai phong đến ngạo nghễ. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những gửi mộng qua biên giới, gửi đi những tâm tư, những khao khát yêu thương và gửi đi cả những giấc mơ, giấc mộng chiến thắng, gửi về cho cả quê hương, dáng kiều thơm. Dáng kiều thơm ấy giúp ta liên tưởng đến sự yêu kiều, diễm lệ của những cô gái Hà thành. Đây cũng chính là vầng sáng lung linh trong ký ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thất chí nản lòng. Thật là một vẻ đẹp rất lãng mạn và bi tráng! 
    Trong lòng người chiến sĩ dẫu biết ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, nhưng các anh vẫn xung phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:
    “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
    Nếu như câu “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” chỉ đứng một mình thì nó tạo nên bức tranh rất ảm đạm, thê lương. Bởi vì nơi rừng hoang, ở miền xa xôi nơi biên giới xung quanh chỉ toàn là nấm mồ xanh của những người lính tây tiến vô danh, không một vòng hoa, không một nén hương. Khi anh sống anh là người anh hùng thầm lặng, khi anh mất đi như trở về với cội nguồn. Ta có thể thấy được một điều rất đặc biệt ở câu thơ này là nó được điệp nghĩa vì cả bảy chữ rải rác, biên cương, mồ viễn xứ đều là những từ chỉ sự hẻo lánh, xa xôi. Từ “biên cương, viễn xứ” đều là những từ hán việt nó mang một màu sắc trang trọng, cổ điển, đồng thời cũng vơi đi sự ảm đạm của câu thơ này. Bức tranh chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ trước lên cao. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Đây là câu thơ thể hiện lí tưởng, khát khao của người chiến sĩ. “Đời xanh” ở đây là tuổi trẻ mà tuổi trẻ lại chất chứa biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu hoài bão thì ai mà chẳng tiếc. Vậy tại sao lại nói “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”? Khi ta đặt cái lí tưởng, sự tương quan giữa tuổi trẻ và hoà bình của đất nước ta sẽ hiểu được điều đó. Tuổi trẻ của chúng ta là để chinh phục những ước mơ còn dang dở còn tuổi trẻ của các anh cũng để thực hiện ước mơ nhưng nó to lớn hơn. Ta nổ lực vì tương lai của chính ta, còn các anh là vì tương lai của Tổ quốc. Một hoài bão lớn đến như thế, ước mơ ý nghĩa như vậy thì sao phải tiếc. Có người từng nói “Chỉ cần bạn có lí tưởng, mọi thứ bạn làm đều có ý nghĩa.” Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, nhiều ước mơ, hoài bão lớn lao đầy hứa hẹn nhưng họ chẳng tiếc mà nhiệt tình dâng hiến cả sức trẻ cho Tổ quốc. Đó là một sự hi sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
    Khi chấp nhận ra chiến trường đồng nghĩa sẽ có thể có cái chết. Những người đồng chí, đồng đội của các anh sẽ “gục lên súng mũ bỏ quên đời”:
    “Áo bào thay chiếu, anh về đất
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
    Hình ảnh chiếc “áo bào” thay “chiếu” khiến ta thấm thía biết bao suy ngẫm, gợi sự liên tưởng đến lí tưởng cao đẹp, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao, cái chết ngoài chiến trường “da ngựa bọc thay” là niềm tự hào. Một lần nữa ta thấy được sự khéo léo dùng từ của tác giả, dùng từ Hán việt để giảm bớt đi sự bi thương cho cái chết oanh liệt ấy. Từ áo bào nghe trong có vẻ thật trang trọng, giống như long bào của những vị vua chúa ngày xưa. Nhưng thực tế thì làm gì có điều đó, ở nơi xa xôi trong tận rừng sâu như thế, một vòng hoa còn chẳng có thì lấy đâu ra “áo bào” nó chỉ là tấm áo quân phục đã sờn rách và phai màu theo năm tháng. “Về đất” là cách nói giảm, nói tránh làm dịu nhẹ đi nỗi đau, sự ra đi đồng nghĩa với trở về, những người chiến sĩ khi nằm xuống như bất tử, bởi họ luôn sống mãi trong lòng người đồng chí, đồng đội. Vì vậy, anh ra đi không mang theo tiếng khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không bi lụy mà bi tráng. Hình ảnh dòng sông được nhân hoá đã trở thành một sinh thể biết đau đớn, biết buồn đã tạo âm thanh bi tráng để tiễn đưa người lính về đất mẹ. Cảm hứng lãng mạn kết hợp với chất hiện thực đã tạo nên bức tượng đài về người lính Tây Tiến mất mát, hi sinh nhưng vẫn hào hùng lãng mạn. 
    Tây Tiến là bài thơ, là tấm lòng của những người chiến binh Tây Tiến. Bài thơ không chỉ có nhạc, có họa, mà bên cạnh còn có cái bi là cái hùng, và mất mát, đau thương là niềm kiêu hãnh anh hùng. Đoạn thơ thứ ba này chính là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”.  Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng sông Mã, âm hưởng của Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng. Những người chiến sĩ ra đi vì Tổ quốc cũng sẽ mãi mãi sống trong lòng của tất cả mọi người.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới