Chứng minh rằng: Nhân vật quan phụ mẫu trong truyện ngắn Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn) hiện lên là một kẻ vô trách nhiệm,

Chứng minh rằng: Nhân vật quan phụ mẫu trong truyện ngắn Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn) hiện lên là một kẻ vô trách nhiệm, vô lương tâm; kẻ lòng lang dạ thú. Bài văn
Chép mạng, sai đề 1*

2 bình luận về “Chứng minh rằng: Nhân vật quan phụ mẫu trong truyện ngắn Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn) hiện lên là một kẻ vô trách nhiệm,”

  1. Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút mở đầu cho thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó có tác phẩm “ Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã thể hiện rõ nét nỗi khổ của người dân trong thời kỳ xã hội thối nát, bọn quan lại cường hào thì ăn chơi phè phỡn, không quan tâm tới  người dân.
    Tác phẩm đã đem lại sự tò mò của người đọc ở ngay tiêu đề. Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ phê phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho  riêng mình trong khi đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ vs thậm chí vô lương tâm trước những tính mạng của những con người mà mình phải có trách nhiệm. Tác giả chỉ chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không chọn cả câu bởi ông muốn tạo ra sự tò mò, hấp dẫn người đọc. Bởi trong câu chuyện này thì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội dung, cốt truyện. Và như ý kiến nhận xét trên đây đã đề cập, “Sống chết mặc bay” không phải để “tiền thầy bỏ túi” mà để các quan thoái thác trách nhiệm, “tự do” với cuộc ăn chơi của mình.
    Xuyên suốt tác phẩm, tác giả đã lấy bối cảnh là một cuộc hộ đê của dân làng XX… giữa mùa nước dâng cao. Không gian tác phẩm chỉ gồm hai địa điểm: đê và đình. Ngoài đê, dân tình hối hả, cực nhọc hộ đê. Trong đình, quan phụ mẫu và nha lại chơi đánh bài tổ tôm. Không gian truyện quả thực rất hẹp nhưng hai đối tượng trong xã hội đối lập nhau  . Mà tác phẩm dựng lên lại là hai giai cấp tiêu biểu, vốn có những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội đương thời: nông dân và quan lại phong kiến. Và qua công việc hộ đê trong phạm vi một làng nhỏ, tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”.
    Trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, trời tối đen như mực, nước sông Nhị Hà đang dâng lên, thế mà hàng trăm con người đang phải đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cố giữ lấy đê. Ngược lại hoàn toàn với cảnh đó cách đó vài trăm thước, trong đình đèn điện sáng trưng nhộn nhịp người đi lại, “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài: “Một người quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuộc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để đan xen hai hoàn cảnh: sự khốn khổ, điêu đứng của người dân và sự ung dung, an nhàn vô trách nhiệm của tên quan “phụ mẫu”.
    Sự tài tình khéo léo trong ngòi bút của tác giả thể hiện ở chỗ, hai hình ảnh hoàn toàn đối ngược với nhau tạo nên hai nghịch cảnh. Chính điều này càng gây ra nỗi căm phẫn trong lòng người đọc. Trời càng lúc càng mưa to, đê càng lúc càng sụt lở nhiều, dân càng lúc càng đuối sức. Thì ở trong đình, ván bài của quan càng lúc càng hồi hộp, càng gần đến hồi “gay cấn”. Kết hợp với nghệ thuật tương phản là thủ pháp tăng cấp, Phạm Duy Tốn ép không gian truyện đến nghẹt thở. Cao trào của tác phẩm dâng lên khi có người nhà quê chạy vào run rẩy báo: “Đê vỡ mất rồi”, quan phụ mẫu không những không lo lắng mà còn lớn tiếng quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi tiếp tục thản nhiên đánh bài!
    Với ngòi bút sắc sảo khi nhà văn miêu tả cảnh dân – quan, ta thấy cuộc sống nhân dân khổ đến cùng cực, sự sống mong manh, bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm và lòng lang dạ thú đến tận cùng. Hiện thực ấy được thu nhỏ qua bức tranh hộ đê vô cùng gian khổ. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sống thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Đó là sự tố cáo phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lũ quan lại. Thái độ vô trách nhiệm ấy đã trở thành một tội ác đối với dân. Trong xã hội lúc bấy giờ, không phải chỉ có một mình tên quan phụ mẫu sống vô trách nhiệm với dân mà còn rất nhiều tên quan cũng thờ ơ với số phận của nhân dân giống tên quan phụ mẫu này. Xây dựng hình ảnh một tên quan phụ mẫu nhưng tác giả đã thay lời nhân dân tố cáo những tên quan lại vô lại làm hại dân hại nước đang tồn tại trong xã hội mà tác giả đang sống.
    “Xung quanh một không gian hẹp nhưng “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lại đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”. Ý kiến nhận xét đó đã khái quát được thành công về mặt nội dung tư tưởng của truyện ngắn hiện đại đầu tiên trong nền văn học nước nhà.
    Trong cuộc sống xã hội phong kiến xưa có rất nhiều những kẻ vô lương tâm, lòng lang dạ thú như tên quan phụ mẫu. Trong xã hội nay thì khác, nhà nước đã rất chú trọng đến đời sống nhân dân nhưng vẫn không ít kẻ vì lợi riêng mà mặc cho số phận, sinh mang của nhân dân. Và bởi vậy, có thể khẳng định rằng, giá trị hiện thực của truyện ngắn này vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa tới ngày nay.
    Có thể nói tác phẩm Sống chết mặc bay là lời tố cáo của nhân dân với xã hội phong kiến thối nát, tạo điều kiện cho những kẻ mất nhân tính tồn tại và gieo rắc nỗi khổ cho nhân dân. Tác giả đã thương cảm cho số phận của nhân dân phải chịu nhiều áp bức , bóc lột

    Trả lời
  2. Phạm Duy Tốn đã khắc họa thành công nhân vật óc tính cách điẻn hình là tên qua  phụ mẫu là kẻô trách nhiệm, vô lương tâm; kẻ lòng lang dạ thú. Thật vậy, nhân vạt quan phụ mẫu trong truyện chính là một tên vô trách nhiệm đến táng tậm lương tâm. Trước hết quan phụ mẫu chính là quan cha mẹ của nhân dân. Tuy là qaun cha mẹ của nhân dân nhưng khi cả nghìn con dân đg cố găng chống cự lạ thiên nhiên thì ông không ra hộ đê. Không chỉ không hộ đe, ông chỉ lo dánh những con bài đen đỏ và ngồi trong đình nhàn nhã với tư thế rất hưởng thụ ” tay trái dự gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi”. Ông hoàn toàn để ý ngoài kia ra sao dù ngoài kia “mưa gió ầm, dân phu rối rít” thfi ông vẫn chẳng để tâm đến việc hộ đê mà chỉ mải đánh bài ” này đê mjacw đê; nước sông dù nguy, cũng không bằng nước bài cao thấp” . Khi có người báo ” dễ có khi đe vỡ” thì tên quan ấy lại tỏ ra khó chịu “cau mặt” rồi lại tiếp tục ván bài đang dở dang. Cfon khi người báo dê vơ hắn ljai đổ lỗi cho nhân dân “thời ông cách cổ chúng mfay, thời ông bỏ tù chúng mày, những điều đó đã thể hiện được thái độ vô trách nhiệm đến táng tậm lương tâm. Không chỉ vậy, ông còn là một kẻ lòng lang dạ thú. Trước hết, lòng lang dạ thú là nói nhữung kẻ có lòng dạ độc ác được so sánh với các loài thú hoặc là những người có tâm địa ác tâm, trộm cắp, là người chỉ biết trục lợi của bản thân và không đáoi hoài những người xung quanh. Khi ông ù lớn cũng là lúc đê vỡ ” nước trôi lênh láng, xoáy thành vực, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chế không nơi chôn” Tác giả đã sử dụng các từ ngữ ” đỏ tía tai”, “quát”, “cau mày”,”gắt” “vừa cười vừa nói”, vỗ tay” để vạch trần bản chất độc ác, không có tính người ở tên quan phụ mẫu. Bằng nghệ thuật tương phản, tăng cấp cùng nhiều thủ pháp khác, Phạm Duy Tốn đã miêu tả hình ảnh người quan phụ mẫu vô cảm, thời ơ . Đông thời phê phán chính quyền nửa phong kiến những năm đầu thé kỉ XX 

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới