Đề 5. Bàn về truyện ngắn Sống chết mặc bay, Sách giáo khoa Ngữ văn 7 có viết: Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan

Đề 5. Bàn về truyện ngắn Sống chết mặc bay, Sách giáo khoa Ngữ văn 7 có viết: Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ lòng lang dạ thú và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên..
Bằng hiểu biết của mình, em hãy chứng minh.

2 bình luận về “Đề 5. Bàn về truyện ngắn Sống chết mặc bay, Sách giáo khoa Ngữ văn 7 có viết: Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan”

  1. Tác phẩm “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và do thái độ, trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
    Khi đọc tác phẩm, ấn tượng đầu tiên chính là về nhan đề. “Sống chết mặc bay” là một vế của câu tục ngữ dân gian “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”: phê phán những hạng người vô trách nhiệm, ích kỷ, chỉ biết lợi ích của bản thân mà không quan tâm đến cuộc sống, thậm chí tính mạng của những người khác (trong câu tục ngữ là chỉ thầy thuốc). Việc sử dụng “Sống chết mặc bay”, Phạm Duy Tốn muốn phê phán, tố cáo những bọn có chức quyền, mang danh “quan phụ mẫu”, “cha mẹ” của dân nhưng lại vô trách nhiệm, vô lương tâm, mất hết nhân tính, thờ ơ trước sự sống còn của con dân. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng bày tỏ sự xót thương, đồng cảm trước cuộc sống đầy cực khổ của người dân.
    Truyện mở đầu bằng một tình huống vô cùng căng thẳng, lôi cuốn người đọc vào câu chuyện được kể. Đó chính là tình huống con đê sắp vỡ. Phạm Duy Tốn đã xây dựng đầy đủ các yếu tố nghệ thuật từ thời gian: gần một giờ đêm, không gian (địa điểm) là khúc đê làng X, thuộc phủ X. Đồng thời miêu tả thời tiết lúc này “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Việc sử dụng nghệ thuật tăng cấp, qua đó diễn tả sức hung bạo của mực nước và điều đó đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân. Trong tình cảnh đó nhân dân đã phải ra sức chống đỡ từ chiều cho đến gần một giờ sáng. Với sự tham gia của hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi. Không khí thì luôn trong tình trạng khẩn trương, gấp gáp (trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi…). Phạm Duy Tốn còn trực tiếp bộc lộ thái độ của mình: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Có thể thấy khung cảnh bên ngoài lúc này thật nhốn nháo, căng thẳng, con người dường như bất lực hoàn toàn. Qua đó thể hiện tâm trạng lo lắng của tác giả.
    Nhưng khác hẳn ngoài kia, không khí trong đình lại thật yên bình. Bởi đình nằm trên mặt đê, vững trãi và an toàn lắm. Khung cảnh trong đình được nhà văn xây dựng bằng thủ pháp tương phản, đối lập hoàn toàn với bên ngoài đê. Trong đình, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng. Còn quan phủ cùng nhau lại đánh tổ tôm: “quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm”. Thật đau đớn thay khi một viên quan phụ mẫu lại không cùng nhân dân bảo vệ con đê, mà thản nhiên ngồi chơi bài. Thậm chí khi có người chạy vào báo con đê sắp vỡ. Ông ta cũng không hề lo lắng mà còn “cau mặt, gắt: mặc kệ!”. Rồi sau đó vẫn không ngừng việc chơi bài. Khung cảnh trong đình thật náo nhiệt “thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…”. Sự đối lập của hai khung cảnh trên đã cho thấy hình ảnh một tên quan là kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ trước nỗi khổ của nhân dân.
    Cuối cùng là cảnh con đê bị vỡ được miêu tả thật chân thực, sinh động. Nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi, lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Một tình cảnh đáng thương, đau đớn biết bao. Nhưng tên quan thì vẫn mải mê với ván bài chơi dở:
    “Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:
    – Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!
    Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:
    – Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?…”
    Bên ngoài kia, đê đã vỡ, người dân rơi vào tình cảnh sầu thảm. Con trong đình, viên quan phụ mẫu lại tức giận vì có người cản trở quan chơi bài, cũng sung sướng vì đã thắng được ván bài. Nghệ thuật tương phản, tăng tiến đã được nhà văn sử dụng để thể hiện dụng ý nghệ thuật.
    Tóm lại, “Sống chết mặc bay” là một trong những tác phẩm thành công. Truyện đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
    xin 5 sao và hay nhất em nhé

    Trả lời
  2. Phạm Duy Tốn – một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của đầu thế kỉ XX. “Sống chết mặc bay” là truyện ngắn đầu tay đồng thời cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Tác phẩm đã dựng lên bức tranh về cuộc sống người dân, cũng như bộ mặt của giai cấp cầm quyền trong xã hội cũ.
    Truyện mở đầu bằng một tình huống hết sức căng thẳng, gay cấn: mọi người đang cùng nhau gắng sức hộ đê. Thời gian lúc đó là gần một giờ đêm, nước sông Nhị Hà mỗi lúc một cao, trời mưa tầm tã không ngớt. “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy ướt như chuột lột”. Việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với các câu hội thoại, tiếng gọi, tiếng hô, thể hiện tình thế nguy ngập, căng thẳng, nghìn cân treo sợi tóc. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các lời bình luận như: “Tình cảnh trông thật thảm hại” ; “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất” hàng loạt các câu cảm thán được đưa ra càng thể hiện rõ hơn nỗi lo lắng của tác giả trước tình thế nguy ngập, gấp rút này.
    Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc chắc hẳn ai cũng sẽ đặt ra câu hỏi vậy người lãnh đạo, người đứng đầu lúc này đang ở đâu? Rời xa khung cảnh của những người dân phu, ống kính máy quay của tác giả lia đến địa điểm trên đỉnh, cao mà vững chãi cho người đọc thấy được chân dung của viên quan phụ mẫu. Thì ra vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, với một khung cảnh hoàn toàn trái ngược: “Đình ấy ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì” và “trong đình, đèn thắp sáng trưng, nha lệ lính tráng, kẻ hầu, người hạ, đi lại rộn ràng”. Không khí trong đình ấm cúng, nghiêm trang khác hẳn với không khí đầy lo âu, sợ hãi ở ngoài kia. Sự bình thản của mỗi người được thể hiện trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư tế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu và đánh tam cúc cùng lũ người dưới quyền.
    Bằng ngôn ngữ tự sự, miêu tả, biểu cảm tác giả đã tái hiện khung cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức niềm xót xa nơi người đọc cho số phận của những người dân nghèo nàn, cực khổ. Vào thời điểm gay cấn nhất có người vào báo tin: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ” thì ngài cau mặt mà gắt: “Mặc kệ”. Sự việc còn được đẩy lên một mức độ cao hơn nữa khi đê vỡ ai nấy đều tái mặt, sợ hãi thì quan phụ mẫu quát tháo: “Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”. Rồi quan tiếp tục ván bài sắp ù to của mình. Thật là một kẻ lòng lang dạ thú, độc ác bất nhân. Hắn chỉ ngồi lo đánh bài, chứ không quan tâm đến tính mạng của người dân, đê vỡ mặc đê cũng không thể bằng nước bài cao thấp của hắn. Nghệ thuật tương phản, tăng cấp đã phát huy tác dụng để vạch trần bộ mặt bất nhân của kẻ cầm quyền, cho thấy số phận đau thương, bất hạnh của người dân. Tác phẩm đã dựng lên hai bức tranh tương phản rõ nét, phản ánh toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh đối lập này càng làm tăng thêm ý nghĩa tố cáo những kẻ cầm quyền độc ác, vô nhân tính, không biết quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân.
    Có thể nói bằng nghệ thuật tương phản, tăng cấp độc đáo cùng với việc sử dụng ngôn từ khéo léo, Phạm Duy Tốn đã dựng lên hai bức tranh, hai nghịch cảnh. Nếu tên quan thì nhàn hạ, sung sướng, còn nhân dân thì khổ cực trong bão lũ. Ngôn ngữ tác phẩm đã thoát khỏi tính ước lệ, khuôn sáo và điển tích của văn học trung đại, ngôn từ tiến gần đến lời ăn tiếng nói hàng ngày – ngôn ngữ văn học hiện đại.
    “Sống chết mặc bay” là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm là bản cáo trạng tố cáo mạnh mẽ, đanh thép những kẻ cầm quyền vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới