Nêu các tín hiệu nghê thuật trong bài nhớ rừng và phân tích Khổ 1 + Khổ 4 Khổ 2 + Khổ 3 Khổ 5
Nêu các tín hiệu nghê thuật trong bài nhớ rừng và phân tích
Khổ 1 + Khổ 4
Khổ 2 + Khổ 3
Khổ 5
2 bình luận về “Nêu các tín hiệu nghê thuật trong bài nhớ rừng và phân tích Khổ 1 + Khổ 4 Khổ 2 + Khổ 3 Khổ 5”
1. Đoạn 1 và 4: Tình cảnh của con hổ trong vườn bách thú.
– Từ một vị chúa tể muôn loài tung hoành chốn nước non hùng vĩ, nay con hổ bị giam hãm trong cũi sắt, một không gian nhỏ bé, tù túng, thậm chí tầm thường, giả dối: hoa chăm, cỏ xén, nước đen giả suối, mô gò thấp kém, dăm vừng lá bắt chước vẻ hoang vu.
– ý thức được thực trạng đó, tâm trạng của kẻ “sa cơ” chất chứa cả “khối căm hờn” ngùn ngụt.
– Chán ghét, bất lực, nhưng con hổ không cam chịu chấp nhận hoà mình vào thực tại đó.
– Thái độ, giọng điệu kẻ bị giam hãm vẫn toát lên vẻ ngạo mạn, kiêu hùng của một vị chúa tể rừng già: khinh bỉ lũ người ngẩn ngơ mắt bé và lũ gấu báo dở hơi, vô tư lự; khinh ghét và giễu cợt cái thực tại cố làm ra vẻ tự nhiên, nhưng càng cố càng lộ rõ cái vẻ tầm thường, giả dối.
– Bằng những hình ảnh gợi cảm, giàu chất tạo hình và dòng cảm xúc cuồn cuộn, đoạn thơ 1 và 4 đã tạo nên bức tranh đầy tâm trạng về con hổ ở vườn bách thảo, một trang anh hùng lẫm liệt, bị sa cơ thất thế nhưng quyết không hoà nhập với thực tại xã hội đương thời.
2. Đoạn 2 và 3: Cảnh con hổ ở chốn giang sơn hùng vĩ trong dĩ vãng huy hoàng.
– Những câu thơ miêu tả cảnh sơn lâm hùng vĩ và hình ảnh con hổ ngự trị trong đó là những câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Đó là một bức cảnh dữ dội, hoang sơ, đầy uy lực của thiên nhiên: bóng cả cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, khúc trường ca dữ dội.
– Hoà hợp và nổi bật giữa bức cảnh rừng già là hình ảnh con hổ oai phong, đường bệ với những “vũ điệu” đầy uy lực của rừng xanh: Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng – Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng – Vờn bóng âm thầm lá gai, cỏ sắc”… Sự im lặng âm thầm của nó không phải là dấu hiệu bình yên mà trái lại, đầy đe doạ đối với mọi vật. Những câu thơ sống động, giàu hình ảnh đã diễn tả chính xác và hấp dẫn vẻ đẹp uy nghi, dũng mãnh mà cũng rất mềm mại, uyển chuyển của chúa sơn lâm.
– Cũng tái hiện dĩ vãng huy hoàng nhưng đoạn 3 của bài thơ là một bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp. Cả bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, hoành tráng và nổi bật giữa mỗi cảnh là hình ảnh con hổ uy nghi, nhớ rừng đến cháy ruột. Dáng điệu của nó được khắc họa hết sức phong phú, kì vĩ và thơ mộng. Khi thì nó được hiện lên như một chàng thi sĩ lãng mạn, hào hoa đứng uống ánh trăng tan bên bờ suối; khi nó giống một nhà hiền triết thâm trầm lặng ngắm đất trời thay đổi sau mưa bão; khi nó lại là một bậc đế vương hiền lành có chim ca hầu quanh giấc ngủ; và cuối cùng, nó là chính nó, vị chúa tể rừng già tàn bạo, dữ dội, làm chủ bóng tối, làm chủ vũ trụ.
– Mảnh mặt trời là một hình ảnh mới lạ trong thơ Thế Lữ. ở đây, mặt trời không còn là một khối cầu lửa vô tri vô giác mà là một sinh thể. Trong cả vũ trụ bao la rộng lớn, chỉ có một kẻ duy nhất được chúa sơn lâm coi là đối thủ, đó là mặt trời. Nhưng cả đối thủ dáng gờm đó cũng bị chúa sơn lâm nhìn bằng con mắt khinh bỉ, ngạo mạn: mặt trời tuy gay gắt nhưng cũng chỉ là một “mảnh”. Nếu bỏ từ “mảnh” và thay từ “chết” bằng “đợi” thì câu thơ sẽ trở nên lạc lõng bởi nó không hợp với lo gích tâm trạng cũng như tầm vóc của con mãnh thú. Với câu thơ “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” . Tầm vóc của chúa tể rừng già đã được nâng lên ở mức phi thường và kì vĩ đến tột đỉnh.
– Tuy nhiên, tất cả những điều đẹp đẽ trên giờ chỉ còn là dĩ vãng, là giấc mơ. Một loạt những câu nghi vấn “Nào đâu…?”, “Đâu…?” không có câu trả lời được lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh, như nỗi nhớ thương khắc khoải, vô vọng của con hổ về một thời vàng son, huy hoàng trong quá khứ xa xôi. Giấc mơ đột ngột khép lại trong một tiếng than, tiếng vọng đầy u uất, đau đớn, nuối tiếc: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
– Khổ thơ cuối vừa tiếp tục mạch tâm trạng nhớ tiếc quá khứ vừa như một tiếng thở dài vĩnh biệt thời oanh liệt. Nhưng dù thời oanh liệt không còn nữa, không bao giờ trở lại thì nó vẫn thuộc về thời đã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, một kẻ tầm thường, vui lòng hoà nhập với thực tại. Nó luôn sống với những giá trị của thời đã qua để phản ứng lại với thực tại xã hội đương thời, để vươn tới cái cao cả, tự do dù chỉ là trong mơ ước.
– Đối lập gay gắt hai cảnh tượng, hai thế giới, tác giả đã thể hiện mối bất hoà sâu sắc đối với thực tại và niềm khát khao tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Lời con hổ trong bài thơ đã tìm được sự đồng cảm trong tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và kín đáo khơi gợi lòng yêu nước của người dân Việt Nam mất nước lúc đó.
“Bài ca nhớ rừng” của tác giả Xuân Quỳnh là một tác phẩm thi ca với nhiều tín hiệu nghệ thuật phong phú. Bài thi ca này được chia thành 5 khổ, trong đó:
Khổ 1 và Khổ 4:
Tín hiệu nghệ thuật: Sử dụng các từ ngữ tả cảnh, tạo hình ảnh sống động, hình ảnh rừng ngập tràn, nét đẹp hoang sơ của thiên nhiên được tả chi tiết. Sử dụng các từ ngữ như “mây trắng bao phủ”, “bóng cây bóng mây”, “tiếng ve râm ran”, “trăng soi đáy ao” để tạo hình ảnh sống động về thiên nhiên trong đầu người đọc.
Phân tích: Bằng cách sử dụng tín hiệu nghệ thuật này, tác giả đã tạo ra một không gian huyền bí, hoang sơ, đầy nét đẹp của thiên nhiên để truyền tải thông điệp về tình yêu và sự trân trọng đối với thiên nhiên, với đất nước Việt Nam.
Khổ 2 và Khổ 3:
Tín hiệu nghệ thuật: Sử dụng phép nhân hoá để tăng cường hiệu quả của tác phẩm. Tác giả tả chi tiết về nhiều loài động vật và thực vật trong rừng như “cây trúc, cây xanh mơn mởn, bướm vàng, ong vàng” để tạo nên một không gian đa dạng, phong phú, sống động.
Phân tích: Tín hiệu nghệ thuật này tạo nên sự sống động, màu sắc, tăng cường sức mạnh tả đồng thời cũng gợi lên cho người đọc sự đa dạng, phong phú của thiên nhiên và cũng đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với mọi loài sinh vật trong đất nước.
Khổ 5:
Tín hiệu nghệ thuật: Sử dụng phép tả cảm để kết thúc bài thơ. Tác giả sử dụng các từ ngữ như “nhớ”, “yêu”, “tôn kính” để thể hiện tình cảm sâu nặng, tôn kính sự sống của rừng, tình yêu đối với đất nước, tình cảm với thiên nhiên.
Phân tích: Tín hiệu nghệ thuật này giúp tác giả kết thêm được sự tận tâm và chân thành trong tác phẩm của mình, và cũng gợi lên sự đồng cảm của người đọc với tác giả, cùng chia sẻ tình cảm yêu thiên nhiên và đất nước
No copy