Viết `1` bài văn phân tích về bài thơ Quê Hương

Viết `1` bài văn phân tích về bài thơ Quê Hương

2 bình luận về “Viết `1` bài văn phân tích về bài thơ Quê Hương”

  1. Dàn ý phân tích bài thơ Quê hương 
    1. Mở bài:
    • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Quê hương là bài tiếng nổi tiếng của nhà thơ Tế Hanh
    • Khái quát nội dung tác phẩm: bài thơ thể hiện tình yêu quê hương sâu đậm của tác giả – một người con xa quê.
    2. Thân bài:
    Luận điểm 1: Bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động của người dân chài
    * Bức tranh làng quê miền biển:
    • Lời giới thiệu: “vốn làm nghề chài lưới” ⇒ làng nghề đánh cá truyền thống
    • Vị trí: sát ngay bờ biển, “nước bao vây”
    -> Lời giới thiệu giản dị, mộc mạc, không rườm rà, hoa mỹ.
    * Cảnh lao động của người dân làng chài:
    – Cảnh đánh bắt cá trên biển:
    • Không gian, thời gian: 1 buổi sớm trời trong, gió nhẹ ⇒ điều kiện thuận lợi để ra khơi.
    • Hình ảnh chiếc thuyền đánh cá: dũng mãnh vượt biển, thể hiện qua các động từ mạnh “hăng”, “phăng”, “mạnh mẽ vượt” và phép so sánh “như con tuấn mã”
    • Hình ảnh cánh buồm giữa biển khơi: con thuyền như linh hồn của người dân làng chài, nổi bật trên nền trời bao la rộng lớn ngoài biển khơi.
    -> Khung cảnh tuyệt đẹp, trần đầy sức sống, sự tươi mới, hứa hẹn một ngày ra khơi thắng lợi.
    – Cảnh con thuyền trở về sau 1 ngày lênh đênh trên biển
    • Người dân: tấp nập, hớn hở với thành quả của 1 ngày đánh bắt
    • Hình ảnh người dân chài: làn da “ngăm rám nắng” , thân hình “nồng thở vị xa xăm” ⇒ khỏe mạnh, đậm chất miền biển, đầy lãng mạn với “vị xa xăm” – vị của biển khơi, của muối, của gió biển – đặc trưng cho người dân chài.
    • Hình ảnh con thuyền: động từ nhân hóa “mỏi”, “nằm”, “nghe”,… con thuyền như một con người lao động, biết tự cảm nhận thân thể của mình sau một ngày lao động mệt mỏi.
    -> Bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển và hình ảnh khỏe khoắn, tràn đầy sức sống, tinh thần lao động của người dân làng chài.
    Luận điểm 2: Nỗi nhớ da diết, tình cảm thắm thiết của tác giả với quê hương của mình
    • Liệt kê một loạt các hình ảnh của làng quê: “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi”, “con thuyền rẽ sóng”,… thể hiện nỗi nhớ quê hương chân thành, da diết của tác giả.
    • Câu thơ cuối: “mùi nồng mặn” – mùi của biển khơi, cá tôm, mùi của con người ⇒ hương vị đặc trưng của quê hương miền biển.
    • Câu cảm thán như một lời nói thốt ra từ chính trái tim của người con xa quê với một tình yêu thủy chung, gắn bó với nơi đã bao bọc mình.
    Luận điểm 3: Nghệ thuật
    • Thể thơ tám chữ phóng khoáng, phù hợp với việc bộc lộ cảm xúc giản dị, tự nhiên.
    • Các hình ảnh liên tưởng, so sánh, nhân hóa vô cùng độc đáo.Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giọng điệu nhẹ nhàng, da diết.
    3. Kết bài:
    -Khẳng định lại giá trị : Với những đặc sắc nghệ thuật bài thơ “Quê hương” không chỉ là thành công lớn trong sự nghiệp thơ Tế Hanh mà còn thể hiện tình cảm yêu thương, nỗi lòng sâu sắc, cảm động của tác giả đối với quê hương của mình.
    -Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Đây là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ dạt dào tình cảm của Tế Hanh và cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về tình cảm quê hương.
    Phân tích bài thơ Quê hương 
    Quê hương là nguồn cảm hứng lớn suốt đời thơ của Tế Hanh. Dưới ngòi bút của ông, nguồn cảm hứng này đã tạo thành một dòng chảy tâm tình với nhiều bài thơ nổi tiếng. Bài thơ “Quê hương” được sáng tác năm 1939, in trong tập thơ “Hoa Niên”, là tác phẩm mở đầu cho mạch cảm hứng viết về đề tài này của ông. Gói ghém trong bài thơ là lời yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào tha thiết chân thành của Tế Hanh về sông nước quê hương mình.
    Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của người con xa quê. Nổi bật trong bức tranh quê hương là làng chài ven biển tươi sáng, đẹp đẽ, sống động, cùng với hình ảnh những người ngư dân lao động khỏe khoắn tươi vui trong công việc của chính mình.
    Trước hết, hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về quê hương của nhà thơ:
    Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
    Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
    Lời thơ ngắn gọn, tự nhiên như một câu văn xuôi thông thường nhưng đã giới thiệu một cách đầy đủ từ công việc thường làm đến vị trí của “làng tôi”. Đó là một làng nghề chài lưới ven biển xinh xắn với con sông Trà Bồng thơ mộng uốn khúc, bao quanh. Người đọc nhận ra trong lời kể hàm chứa một nỗi xúc động nghẹn ngào và nỗi nhớ nhung da diết của một người con xa xứ. Và từ đó, hình ảnh làng chài quê hương cứ lần lượt hiện lên như một thước phim quay chậm trong tâm trí, chiếm lĩnh tâm hồn của nhà thơ.
    Nhớ về quê hương, ấn tượng đẹp và in sâu đậm nhất trong lòng Tế Hanh đó là hình ảnh về những con người lao động đang đưa thuyền ra khơi đánh bắt cá:
    Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng
    Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
    Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
    Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
    Khung cảnh của biển cả thiên nhiên hiện lên thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Ánh mặt trời mới nhú lên khỏi mặt biển, ánh nắng hồng dịu nhẹ trải khắp muôn nơi. Và khi ấy, những người ngư dân lại bắt đầu cuộc hành trình lao động của chính mình. Họ bắt đầu nhổ neo, đẩy thuyền tiến ra khơi xa. Nghệ thuật so sánh, kết hợp với những động từ mạnh như “hăng”, “phăng”, “vượt” không chỉ cho thấy sức mạnh khỏe khoắn, đầy tự tin của chiếc thuyền khi ra khơi mà còn thể hiện khí thế hăng hái, căng tràn sinh lực và cả sự hăng say trong lao động của những con người làm chủ vũ trụ, làm chủ biển lớn đại dương mênh mông. Khi ấy, con thuyền hiện lên thật chứa chan sức sống, tâm hồn của làng chài ven sông:
    Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
    Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
    Cánh buồm được gió trời thổi căng như chứa đựng cả hồn thiêng quê hương, ẩn chứa trong đó biết bao nhiêu là niềm tin, sự hi vọng của những người ngư dân về một cuộc thủy trình đánh bắt cá bình yên và thu được những mẻ lưới bội thu. Động từ “rướn” vừa cho thấy sự khéo léo, uyển chuyển linh hoạt; lại vừa cho thấy sức mạnh vươn lên, rướn cao lên cùng mây gió của con thuyền khi ra khơi. Vì thế, con thuyền như càng trở nên kì vĩ hơn, lớn lao hơn và hùng tráng hơn trước vụ trụ thiên nhiên. Chắc hẳn phải có một tâm hồn lãng mạn, sức liên tưởng dồi dào cùng với tình yêu quê hương sâu sắc thì Tế Hanh mới có được những cảm nhận độc đáo về “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương to” đến như vậy.
    Đến khổ ba, cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong niềm náo nức, phấn khởi, tấp nập, đông vui:
    Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
    Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
    Nhớ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
    Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
    Dưới ngòi bút tài hoa của Tế Hanh, bức tranh lao động hiện lên thật chân thực, khỏe khoắn, náo nhiệt, đầy ắp tiếng cười nói của con người. Và người ngư dân hiện lên thật hồn hậu, chất phác khi gửi lời biết ơn chân thành tới người mẹ biển khơi đã che chắn, bảo vệ và cho họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lời thơ như thể hiện niềm vui tràn đầy, ngây ngất của Tế Hanh như đang cùng với ngư dân quê mình hát lên bài ca lao động. Trong niềm phấn khởi, say mê và niềm tự hào về người lao động, nhà thơ đã viết lên hai câu thơ thật đẹp về người ngư dân:
    Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
    Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
    Vẻ đẹp ngoại hình với làn da ngăm đen rám nắng với những bắp thịt cuồn cuộn, rắn rỏi, mạnh mẽ đã tạo nên một thần thái phong trần, dẻo dai, kiên cường khi làm chủ biển khơi của họ. Chính cái vị mặn mòi của muối biển, nồng đượm đã thấm sâu trong từng thớ thịt, từng hơi thở của người dân chài làng chài. Cụm từ “vị xa xăm” còn gợi lên hơi thở của đại dương mênh mông, của lòng biển sâu, của những chân trời tít tắp, của phong ba dữ dội. Cho nên, người ngư dân hiện lên như những chiến binh, những người anh hùng phi thường, kì diệu.
    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
    Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
    Nghệ thuật nhân hóa đã thổi hồn cho con thuyền vô tri, vô giác. Những động từ chỉ trạng thái: “im, mỏi, trở về, nằm, nghe” khiến cho con thuyền hiện lên như con người, biết nghỉ ngơi, thư giãn sau một hành trình ra khơi vất vả. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua động từ “nghe” đã làm cho con thuyền có tâm hồn, có suy nghĩ như đang tự cảm nhận “chất muối” – hương vị biển cả quê hương đang dần thấm vào cơ thể. Phải chăng sự cảm nhận đó của con thuyền cũng chính là sự cảm nhận con người ngư dân nơi đây, đó là vẻ đẹp tâm hồn mặn mà, nồng hậu, chan chứa tình yêu thương luôn tồn tại trong họ. Chắc hẳn Tế Hanh phải là một người con đằm cả hồn mình vào quê hương với tình yêu quê da diết thì mới có thể có được những cảm nhận sâu sắc đến như thế.
    Khép lại bài thơ là lời bộc bạch chân thành về nỗi nhớ làng da diết, khôn nguôi:
    Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
    Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
    Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
    Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
    Lúc viết bài thơ này, Tế Hanh khi ấy mới 18 tuổi, còn rất trẻ và đang phải xa quê hương – nơi gắn bó với biết bao nhiêu kỉ niệm của tuổi thơ. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ quê luôn trở đi trở lại trong tâm hồn nhạy cảm của ông. Điệp khúc “luôn tưởng nhớ” , “tôi thấy nhớ” đã diễn tả tấm lòng tha thiết, thành thực về làng quê với cả hình ảnh, màu sắc và hương vị của Tế Hanh. Tất cả đều khắc sâu, in đậm mà không bao giờ có thể quên đi được đối với người con xa xứ này.
    Về mặt nghệ thuật, bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả và biểu cảm. Nếu như miêu tả được thể hiện ở hệ thống hình ảnh, từ ngữ phong phú, gợi hình, với một loạt các nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ… đã góp phần tái hiện một bức tranh rộng lớn về làng chài ven sông: rộn rã, náo nức, khỏe khoắn, lãng mạn thì phương thức biểu cảm lại diễn tả thật cảm động nỗi nhớ, tình yêu và niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, xứ xở. Đặt bài thơ vào trong dòng chảy của phong trào thơ Mới, chúng ta mới thấy hết được cái độc đáo, cái khác biệt và giá trị của bài thơ. Nếu như các nhà thơ mới cùng thời đang say sưa trong tháp ngà cá nhân, bi lụy, trốn tránh thực tại thì Tế Hanh lại hướng hồn thơ của mình đến quê hương, với một tình yêu tha thiết, chân thành. Đó là trái tim thổn thức của một người con xa quê, luôn một lòng thủy chung, như nhất tới quê hương xứ xở.
    Tóm lại, với vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

    Trả lời
  2. Có một đề tài, trở đi trở lại như một lời khấn khứa, càng viết nhiều, càng hay. Có lẽ nào, đấy là quê hương. Trong dòng chảy văn học, ta từng nghe một quê hương với ánh trăng, chùm khế, với cánh diều ngây dại mà thiêng liêng trong thơ Đỗ Trung Quân, từng lặn mình với quê hương của Hoàng Cầm trong Bên kia sông Đuống trong những năm kháng chiến máu lửa, đau thương, từng khắc khoải với tấm lòng của người nông dân mộc mạc, chân chất trong Làng của Kim Lân. Và nay, giữa đề tài đã được đào xới nhiều lần, thiên hạ đã đi mòn lối cỏ. Ta vẫn thấy một dòng ánh sáng yêu thương, rất riêng trong quê hương của Tế Hanh.

    Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
    Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
    Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
    Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:

    Bài thơ mở đầu với những lời kể mộc mạc, giản dị và chân thành rất đỗi tự nhiên về quê hương mình. Nhưng quê hương ấy cũng đẹp biết bao, quê hương của miền sông nước nước bao vây, với những người dân trai tráng đầy dũng mãnh và cường tráng. Và rồi, tiếp tục dòng chảy cảm xúc về quê hương thân yêu, nhà thơ dồn tâm xoáy cảm xúc của mình vào hình ảnh con thuyền và cánh buồm-biểu tượng của quê hương miền biển:

    Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
    Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
    Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
    Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

    Chiếc thuyền, nếu trong thơ cổ sẽ là nơi mà những bậc giai nhân tài tử tiễn đưa người bạn tri kỉ của mình, một dòng Yên ba tam nguyệt há Dương Châu trong Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, nếu không thì sẽ là nơi người tài tử nghe tiếng đàn mà thổn thức nỗi lòng, với Tỳ bà hành của Lý Bạch thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt-một vầng trăng trong vắt dòng sông. Nhưng con thuyền của Tế Hanh, con thuyền của cuộc sống lao động mới, nên gần gũi với cuộc sống mưu sinh hàng ngày. Là con thuyền của người dân lao động. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã. Một so sánh thật táo bạo của tác giả. Con thuyền hiện lên mang vẻ đẹp dũng mãnh, hào hoa và đầy sức mạnh. Vừa thấy được tốc độ của gió, vừa thấy được khí thế mãnh liệt, hùng dũng và đầy âm vang của con thuyền. Nó phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang. Động từ phăng thể hiện khả năng vượt giông tố và nguy hiểm của con thuyền quê hương. Con thuyền tung mình bọt trắng xóa, vượt những dặm dài tràng giang chói lói để về đích cùng con người. Với những người dân sông nước, con thuyền đã trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy, và nay bằng khả năng mã hóa của mình Tế Hanh một lần nữa giúp ta khẳng định điều ấy. và nếu con thuyền mang vẻ đẹp hào hùng, khí thế thì cánh buồm lại mang vẻ đẹp thật hào hoa, lãng mạn

    Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
    Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

    Cánh buồm là vật vô tri, là thứ hữu hình lại được đặt trong liên tưởng với mảnh hồn làng, một sinh thể có tâm hồn, một ấn tượng vô hình, chỉ có trong tâm thức và tiềm thức. So sánh ấy của Tế Hanh đã nâng cánh buồm lên và trao cho nó một linh hồn thực, một sự sống. cánh buồm đã trở thành biểu tượng của mảnh hồn làng, nơi thâu nhận và góp giữ bao nét đẹp của miền sông nước và tâm hồn con người xứ sở này. Cánh buồm vừa được nhân hóa, vừa được so sánh, bởi vậy mà thêm đẹp, thêm lãng mạn bội phần, nó rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Động từ rướn thể hiện tư thế kiêu hãnh, đầy tự tin và chủ động như hình ảnh những người dân làng chài sẵn sàng làm chủ thiên nhiên, làm chủ sóng to biển lớn. gió lộng bốn phương đã được thâu góp và dần thành nên sức mạnh, bản lĩnh của con thuyền, của cánh buồm trắng. Với 4 câu thơ, Tế Hanh đã thổi hồn và nâng tâm hồn của quê hương với những biểu tượng đẹp, tráng lệ, bay bổng.

    Và sau những chuyến ra khơi mỏi mệt, con thuyền lại bỗng chốc hóa hiền lành:

    Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
    Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
    Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe,
    Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

    Sau hành trình dấn thân chinh phục biển khơi, những người dân làng chài đã thu được thành quả là những khoang thuyền đầy cá. Trong niềm vui sướng của thành quả, của lao động hăng say, họ vẫn không quên cảm ơn trời đất. quả là tinh thần người Việt ta, luôn biết ơn những đấng trên cao, luôn ghi nhớ cội nguồn.

    Sang đến khổ thơ tiếp, Tế Hanh tiếp tục bộc lộ một tâm hồn thơ mang đậm phong vị quê hương khi ông miêu tả vẻ đẹp của người dân chài lưới:

    Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
    Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
    Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

    Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, cái nắng của biển khơi, của sóng gió cuộc đời đã tôi rèn và làm nên nét rắn chắc của con người miền biển. Đó là màu nâu của đất đai, của quê hương dung dị, của tâm hồn mộc mạc, của những nhớ và thương vô ngần trong thơ Tế Hanh. Cả thân hình họ đượm vị biển khơi, nồng thở vị xa xăm. Đó là vị của biển, của đất đai, chất mặn của quê hương như đã thấm dần vào từng hơi thở, từng đường nét, từng nếp nhăn trên da thịt họ. Đó là tình cảm yêu quê hương tha thiết, và cũng là vẻ đẹp truyền thống của người dân miền biển. phải yêu và gắn bó tha thiết với quê hương ra sao Tế Hanh mới đằm mình được những câu thơ như vậy. nhưng đó đâu chỉ còn là của con người nữa, nó cũng thấm vào chiếc thuyền thân thuộc:

    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
    Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

    Con thuyền cũng mang một linh hồn riêng, sau cuộc hành trình mệt mỏi nơi đại dương xa xăm, nó cũng mệt mỏi và cần được nghỉ ngơi. Nhưng cái hay của Tế Hanh là nghe được trong đó, một chất gì đó rất riêng, rất tinh. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã giúp con thuyền thực sự trở thành một sinh thể sống, mang trong nó vị mặn mòi của biển khơi, thấm dần qua từng thớ vỏ. Như thế con thuyền cũng mang hơi thở quê hương, cũng mang một linh hồn, một ao ước, một lối sống nơi đây. Tế hanh hẳn phải tha thiết với con thuyền quê hương lắm chăng.
    Để rồi theo dòng cảm xúc, từ hồi tưởng về với hiện tại, nhà thơ có thể là đang trong nỗi xa quê nên thảng thốt nghẹn ngào mà cất lên:

    Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
    Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
    Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
    Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

    Chà, thì ra cái màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi đã trở thành biểu tượng riêng in sâu trong lòng tác giả. Bằng biện pháp liệt kê, Tế Hanh đã một lần nữa cho thấy vẻ đẹp giàu có của quê hương mình. Và đến đây, có lẽ trong vô thức, tâm hồn nhà thơ đã hóa tâm hồn xứ sở, khi cái mùi vị mặn nồng ấy cứ vương vấn và ám ảnh nhà thơ. Nó ăn sâu vào máu thịt và thấm trong từng giác quan. Một Tế Hanh nồng nàn, sôi nổi, tha thiết biết mấy với quê hương.

    Bằng một hình sắc riêng, ấy là cái vị mặn mòi của biển cả quê hương. Tế hanh đã trao gửi hồn mình đến bạn đọc, và chính tấm lòng ấy của nhà thơ đã thức dậy những tình cảm thiêng liêng trong hồn tôi.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới