đề 1 :phân tích bài thơ ‘viếng lăng bác ‘ của viễn phương 1/cảm xúc khi ở trước lăng 2/sự thương nhớ của tác giả khi đứng trư

đề 1 :phân tích bài thơ ‘viếng lăng bác ‘ của viễn phương
1/cảm xúc khi ở trước lăng
2/sự thương nhớ của tác giả khi đứng trước lăng người
3/cảm xúc khi đứng trước bác
4/cảm xúc khi rời lăng người
đề 2 :suy nghĩ của em về nhân vật phương định trong truyện ngắn ‘những ngôi sao xa xôi ‘ của tác giả lê minh khuê
*/nêu khái quát chung
*/nghệ thuật xây dựng nhân vật
*/suy nghĩ về thế hệ trẻ thời chống mỹ

1 bình luận về “đề 1 :phân tích bài thơ ‘viếng lăng bác ‘ của viễn phương 1/cảm xúc khi ở trước lăng 2/sự thương nhớ của tác giả khi đứng trư”

  1. Chào em, em tham khảo gợi ý:
    Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
    Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
    Miền Nam luôn là nỗi day dứt, niềm nhớ thương khôn nguôi của Bác Hồ và ước mong được gặp vị cha già dân tộc cũng là khát vọng thường trực trong tâm hồn những con người miền Nam. “Viếng lăng Bác” là bài thơ của Viễn Phương nói lên tiếng lòng của hàng triệu triệu trái tim miền Nam đối với Người. 
    Bài thơ được sáng tác trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được hoàn thành, đồng bào miền Nam được thỏa mong ước bấy lâu: được ra viếng Bác. Vì vậy, ngay từ dòng đầu tiên, tác giả đã nghẹn ngào thốt lên:
    Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
    Câu thơ giản dị như một lời thông báo nhưng lại ẩn chứa bao niềm xúc cảm sâu lắng của người con miền Nam, sau bao năm tháng đợi chờ mòn mỏi nay đã được thỏa nguyện ra thăm lăng Bác. Tiếng “con” đầu câu thơ vang lên ấm áp, thân thương biết mấy! Bác gần gũi lắm, thân thiết lắm với những con dân đất Việt, như một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” mấy tiếng ấy bao hàm cả nỗi đau và niềm tự hào sâu sắc. Miền Nam của nỗi đau chia cắt, miền Nam đi trước về sau, miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam thành đồng Tổ quốc vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo để về sum họp một nhà với cả nước thân yêu! Mong một lần được nhìn thấy Bác cho thỏa nỗi nhớ mong, nhưng thật đau xót, Bác không còn. Vì vậy từ “thăm” được sử dụng thay cho từ “viếng” không chỉ là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt cảm giác đau thương, xót xa mà còn là sự khẳng định sức sống bất diệt của Bác Hồ – Người còn sống mãi trong lòng miền Nam, trái tim Việt Nam.
    Trong niềm cảm xúc trào dâng ấy, hình ảnh hàng tre hiện lên đầy hiên ngang, mang tới bao ấn tượng sâu đậm cho người viếng thăm:
    Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
    Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
    Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
    Thán từ “Ôi” cất lên như dòng cảm xúc ngỡ ngàng trào dâng trong lòng nhà thơ. Những tính từ “bát ngát”, “xanh xanh” gợi sự trải dài ngút ngàn, mướt mát của hàng tre bên lăng Người. Hình ảnh cây tre vốn là biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường, cho tấm lòng thẳng ngay kiên trung. Nó đã đi sâu vào tâm thức dân tộc, tỏa bóng mát rượi bao trùm bao thế hệ người Việt Nam. Đó là khóm tre đằng ngà trong bàn tay Thánh Gióng đánh đuổi giặc  n bảo vệ bờ cõi đất nước, là lũy tre làng thân quen bao bọc sự bình yên của thôn xóm, là cây tầm vông, là hầm chông giết giặc. Cây tre ấy mang những phẩm chất của con người, Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Và Bác chính là sự hội tụ tất cả những gì cao đẹp nhất của phẩm cách Việt Nam: là sự sống bát ngát luôn xanh màu, là tâm thế kiên cường “đứng thẳng hàng” chống chọi lại với “bão táp mưa sa”. Hàng tre ấy bây giờ đang đứng bên lăng Bác như người lính kiên trung canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người, như dân tộc Việt Nam đời đời sát cánh bên vị cha già dân tộc.
    Sau giây phút lắng sâu với dòng cảm xúc nghẹn ngào vỡ òa khi tới lăng, hòa vào dòng người đến thăm Bác, dòng suy tưởng của nhà thơ dâng trào những cung bậc mới:
    Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
    Thấy một mặt trời trên lăng rất đỏ
    Câu thơ tạo hiệu ứng thẩm mỹ đặc biệt trước hết bởi sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh thực và hình ảnh sóng đôi với nhau. Từ hình ảnh thực mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ soi sáng và mang lại sự sống cho muôn loài “ngày ngày đi qua trên lăng”, Viễn Phương liên tưởng tới một mặt trời ẩn dụ trong lăng. Bác Hồ là mặt trời, Bác đã mang ánh sáng cách mạng đến cho dân tộc. Bác đã dẫn lối, chỉ đường cho đất nước đi qua bao thăng trầm của lịch sử. Ánh sáng của Người xua tan đêm đen bao phủ dân tộc hàng nghìn năm. Tình yêu bao la từ trái tim ấm áp của Người có sức nóng, lan tỏa như tia nắng mặt trời. Nhưng dường như chỉ ví Bác với mặt trời thôi thì chưa đủ, mà cần phải nhấn mạnh đặc tính nổi bật nhất của cái quầng sáng thiêng liêng ấy “rất đỏ”. Mặt trời “Ngày ngày đi qua trên lăng” của vũ trụ bao la đâu phải lúc nào cũng giữ được sắc đỏ và nguồn nóng mà sẽ có lúc bị đêm đen bao phủ. Nhưng mặt trời Bác Hồ thì vĩnh cửu, trường tồn, mãi là nguồn sống, là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam, mãi mãi đỏ thắm trong trái tim, tâm hồn mỗi người con đất Việt. Vì vậy mà con cháu của Bác luôn thành kính dâng lên người tình yêu chân thành nhất:
    Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
    Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
    Như mặt trời thiên nhiên, ngày ngày dòng người cũng đi qua trên lăng, trong niềm thương nỗi nhớ sâu đậm. Điệp ngữ “ngày ngày” khẳng định thời gian vĩnh cửu, chảy trôi. Nhịp thơ đều đều, chầm chậm, như bước chân đoàn người vào lăng viếng Bác. “Dòng người đi trong thương nhớ” ấy kết thành những tràng hoa tươi thắm dâng Người. Đó không chỉ là hình ảnh thực mà còn là hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo của Viễn Phương: cuộc đời của con người đã nở hoa dưới ánh sáng mặt trời của Bác. Đó là tràng hoa đẹp nhất, với hương thơm ngát kính dâng lên Người – dâng lên “Bảy mươi chín mùa xuân”. Hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng được tác giả sử dụng thật độc đáo. Con người vĩ đại ấy đã sống trọn vẹn một cuộc đời đẹp như mùa xuân thắm tươi và làm nên những mùa xuân bát ngát cho đất nước, cho con người Việt Nam. Ta nhận ra trong đó bao sự thành kính, trân trọng của một người con đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Và niềm biết ơn thành kính ấy đã chuyển thành nỗi xúc động nghẹn ngào khi tác giả được thấy:
    Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
    Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
    Bác đang bình yên trong giấc ngủ êm đềm. Nỗ lực của “bảy mươi chín mùa xuân” trong cuộc đời Người đã được đền đáp xứng đáng khi giờ đây núi sông đã liền một dài, Nam Bắc thống nhất, đất nước chan hòa trong tự do, hạnh phúc. Sự bình yên của Bác là sự bình yên của một lãnh tụ suốt đời lo lắng cho dân tộc, đã có thể an lòng trước sự vững vàng của đất nước. Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi liên tưởng thú vị tới “vầng trăng sáng dịu hiền”. Trăng là tri kỉ của Bác, đã cùng Người gắn bó, san sẻ từ những ngày tháng còn trong lao tù hay giữa “cảnh khuya” nơi chiến khu luận bàn việc quân. Nhưng chưa bao giờ Người được thảnh thơi ngắm trăng. Chỉ giờ đây, khi đã “nằm trong giấc ngủ bình yên”, Người mới đến với trăng trọn vẹn tấm tình. Trăng dịu hiền soi sáng hình ảnh Bác. Nhưng vầng trăng ấy còn là tình cảm thiết tha sâu nặng của con dân Việt nam dệt nên để nhẹ nhàng canh giấc ngủ ngàn thu cho Người. Trăng cũng nằm trong hệ thống hình ảnh vũ trụ được Viễn Phương sử dụng để ví với Bác. Người vừa như mặt trời rực rỡ, vĩ đại, vừa như vầng trăng dịu hiền, thanh cao. Ta nhận ra trong sự so sánh ấy niềm kính yêu vô hạn của nhà thơ đối với Bác. 
    Nhưng tình yêu càng lớn thì niềm đau cũng càng trào dâng mãnh liệt khi phải đối diện với sự thật đau đớn: Bác đã không còn.
    Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
    Mà sao nghe nhói ở trong tim!
    Câu thơ có sự đối lập giữa lí trí và trái tim, giữa cái vĩnh cửu và cái hữu hạ. Trời xanh kia sẽ mãi trường tồn, và Bác sẽ sống mãi trong trái tim, tâm hồn người dân Việt Nam như màu xanh mãi ngự trị trên bầu trời Tổ quốc. Bác về với tiên tổ, hóa thân thành một phần của thiên nhiên đất nước, vĩnh cửu bất diệt cùng núi sống, biển trời quê hương. Nhà thơ Tố Hữu đã từng khẳng định:
    Bác sống như trời đất của ta
    Lí trí đã xác định như thế nhưng trái tim thì nhức nhối, nhói đau. Một từ “nhói” đặt chính giữa câu thơ, như một vết khứa đậm sâu trong trái tim nhà thơ, thể hiện niềm đau quặn thắt – nỗi đau vượt lên trên mọi lẽ hằng thường của lí trí. Nơi đây chỉ còn sự ngự trị của trái tim – trái tim thổn thức rung lên những cung bậc yêu kính, tiếc thương chân thành.
    Gặp được Bác, thỏa nguyện mong mỏi bấy lâu, nhưng niềm hạnh phúc, nỗi bồi hồi, sự nghẹn ngào xúc động chưa kịp nguôi thì giờ chia xa đã lại đến:
    Mai về miền Nam thương trào nước mắt
    Câu thơ tràn ngập tình yêu, niềm xúc cảm ngân vang và dòng nước mắt nhớ thương. Chỉ một chữ “trào” thôi cũng đủ diễn tả niềm luyến tiếc, bịn rịn mãnh liệt trào dâng trái tim nhà thơ. Để rồi từ dòng cảm xúc chân thành ấy, nhà thơ cất lên muôn vàn nguyện ước:
    Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
    Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
    Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
    Điệp ngữ “muốn làm” vang lên ba lần như muốn khẳng định ước muốn, sự chân thành của tác giả, cũng là của hàng triệu con người Việt Nam: Muốn làm con chim cất cao tiếng hót trong lành, ngân nga làm rộn ràng không gian; muốn làm bông hoa nhỏ ngát hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ; muốn làm cây tre xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng, trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre khép lại bài thơ thật ý nhị biết bao. Nó láy lại hình ảnh ở đầu bài thơ, tạo nên một khúc ngân…
    “Viếng lăng Bác” là một trong những bài thơ hay nhất về Bác. Làm nên sức sống của thi phẩm là hệ thống hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa và đặc biệt là dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng khắp các dòng thơ. Bài thơ là tiếng lòng không chỉ của Viễn Phương, của người dân miền Nam mà của tất cả những người yêu kính Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim mỗi chúng ta, như sự vĩnh cửu, trường tồn của Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
    * Phân tích nhân vật Phương Định:
    Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã xây dựng nên những bức tượng đài bất tử về các chiến sĩ thanh niên xung phong đã anh dũng chiến đấu cho hòa bình, độc lập của đất nước. Trong số đó, có những nét vẽ khỏe khoắn về những “cô gái mở đường” dũng cảm trong “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ; những cô thanh niên xung phong hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ Phạm Tiến Duật (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Gửi em cô thanh niên xung phong) là người “em gái tiền phương”, “vai áo bạc quàng súng trường” trong “Lá đỏ” của Nguyễn Đình Thi… Lê Minh Khuê cũng đã góp thêm vào đó một chân dung đẹp đẽ, chân thực và sinh động với nhân vật Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”.
    Hòa chung nhịp đập của thời đại cách mạng, người con gái bé nhỏ đã hi sinh tuổi xuân, chấp nhận cuộc sống gian khổ nơi chiến trường như bao đồng đội khác. Cuộc sống chiến đấu hiểm nguy và đầy gian khổ không làm mờ đi tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên cùng tinh thần lạc quan của người nữ thanh niên xung phong ấy. Nó khiến ta xúc động, cảm phục trước một người con gái bé nhỏ mà kiên cường – một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
    Phương Định là một cô gái Hà Nội. Như bao thiếu nữ Hà thành khác, cô từng có một tuổi thơ êm đềm, hồn nhiên. Đó là những tháng năm học trò vô tư sống cùng người mẹ thân yêu trong một căn phòng nhỏ trên một con phố yên tĩnh. Trong những ngày tháng chiến tranh khốc liệt, giữa khói lửa chiến trường, những kỉ niệm mát lành ấy thường ùa về, làm dịu mát tâm hồn cô.
    Phương Định đẹp một vẻ đẹp thanh xuân. Hãy lắng nghe những lời tự khẳng định bản thân của cô: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Đó là những lời tự đánh giá chân thật, vừa có cái tự hào ngầm của một cô gái tự tin, vừa thể hiện sự thẳng thắn của một người chiến sĩ, một nữ thanh niên xung phong. Giữa cái khốc liệt của chiến trường, vẻ đẹp của Phương Định như một “ngôi sao” lấp lánh, làm dịu đi vùng đất “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”. Vẻ đẹp ấy của cô đã khiến bao anh lính ngẩn ngơ. Điều ấy làm cô thấy vui – niềm vui hồn nhiên của một thiếu nữ khi vẻ đẹp của mình được khẳng định. Nhưng cô chưa dành tình cảm đặc biệt cho bất cứ ai. Cô cũng không thích “săn đón vồn vã”. Trong khi những người con gái khác “xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đó” thì cô lại thường “đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, mím môi chặt”. Nếu chỉ đọc đến đây, ta sẽ dễ lầm tưởng Phương Định là một cô gái kiêu kì. Hoàn toàn không phải vậy. Cô chỉ là người con gái kín đáo, không hay biểu lộ tình cảm của mình và như cô nói: “chẳng qua tôi điệu thế thôi”. Chỉ một suy nghĩ “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” cũng đủ cho ta thấy tâm hồn trong sáng của cô. Cô là một thiếu nữ, và trên hết, một nữ thanh niên xung phong mang vẻ đẹp và trái tim của một người lính.
    Vào chiến trường đã ba năm, sống giữa nơi trọng điểm ác liệt, Phương Định vẫn giữ được sự hồn nhiên, mơ mộng của một cô gái mới lớn. Chính tâm hồn lãng mạn ấy đã giúp cô có thể cảm nhận sâu sắc mọi thứ diễn ra xung quanh, từ khung cảnh khô khốc, xơ xác nơi chiến trường, cái im lặng của những buổi trưa đến cả ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết. Điều đó chỉ có được ở một tâm hồn có những sợi dây rung cảm tế vi, dễ va đập vào hiện thực để bật lên xúc cảm. Tâm hồn ấy giúp cô có thể vững vàng trước cuộc chiến. Cô vẫn có thể cất vang tiếng hát, “dựa vào thành đá mà hát”. Ta chợt nhớ tới khẩu hiệu: “tiếng hát át tiếng bom”. Tiếng hát không chỉ là tiếng hát mà nó còn là tiếng lòng, là tinh thần lạc quan, là niềm vui sống. Đó là sức mạnh át đi bom đạn, khói lửa chiến tranh. Tinh thần ấy còn được thể hiện trong những niềm vui bình dị, nhỏ bé, hiếm hoi trong những giờ phút nghỉ giải lao giữa hai lần phá bom: “nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ”; là niềm “vui thích” như trẻ nhỏ khi bắt gặp một trận mưa đã bất chợt “cuống cuồng” giơ tay hứng mưa. Tất cả, tất cả những điều đó không chỉ cho ta thấy sự hiện diện của một tâm hồn lãng mạn mà còn là minh chứng về sức sống, sức trẻ của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
    Phương Định đã cùng đồng đội của mình trải qua những gian khó của trận chiến. Những cô gái phải sống ở một nơi “không có lá cây xanh”, “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Âm thanh quen thuộc hàng ngày họ được nghe là tiếng “máy bay rít, bom nổ”. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt, công việc của Phương Định và đồng đội “chẳng hề đơn giản” mà khó khăn, nguy hiểm vô cùng. Công việc của cô là sau mỗi trận bom, lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Họ “bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh”. Những cô gái thuộc “tổ trinh sát mặt đường” ấy luôn bị cái chết đe dọa. Trong lời tự thuật của Phương Định, giữa những ấn tượng về sự hiểm nguy của công việc, ta thấy lấp lánh ánh sáng của tinh thần lạc quan, lòng dũng cảm. Cô nói về cái chết nhẹ nhàng như kể một câu chuyện đời thường, xen vào đó những câu bông đùa. Ta nhận ra trong đó lòng quả cảm, sự kiên cường của những người chiến sĩ đã được tôi luyện qua lò lửa chiến tranh của người chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. 
    Là một nữ thanh niên xung phong kiên trung, Phương Định vẫn là một cô gái – một cô gái bé nhỏ lắm trước sự mênh mông của chiến trường, của ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Cô cũng có những giây phút  hoang mang trong những lần phá bom: “không gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét chung quanh mà không nghe một tiếng trả lời”. Lúc đó, con người cần lắm một âm thanh gần gũi, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, cũng đủ giúp con người thấy mênh mông bên mình sự che chở đồng tình, để có thể có một khả năng tự vệ rất vững…”. Tâm lí đó của Phương Định rất chân thật, cũng là tâm trạng của biết bao người cầm súng trên chiến trường. Giữa những thời khắc khốc liệt, con người rất cần có những điểm tựa để biết mình có đồng đội, để biết mình không đơn độc, để có thể đứng vững. Vì vậy mà cô thanh niên xung phong Phương Định đã “muốn la toáng lên vì thích thú” khi phát hiện ra “xung quanh cao điểm vắng vẻ này có bao nhiêu là người”. Đó là niềm vui của tình đồng đội, đồng chí. Nó mang đến cho Phương Định sức mạnh vì “cô cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” và cô “không còn sợ nữa”. Những trải nghiệm của Phương Định giúp ta hiểu đâu là cội nguồn sức mạnh tinh thần, ý chí kiên cường của những người chiến sĩ nơi chiến trường. Chính tình yêu, lòng tin tưởng giữa những người đồng đội đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ, vượt qua mọi nỗi sợ hãi để vững vàng tay súng, chiến đấu với quân thù.
    Không chỉ dũng cảm, lạc quan, hồn nhiên, Phương Định còn là một cô gái sống rất tình cảm và sâu sắc. Sự sâu sắc giúp cô hiểu rõ tính cách từng người, biết phân tích mọi chuyện. Tình cảm cho cô những hành động ấm áp. Cô đã gắn bó với Nho và chị Thao ba năm. Ba con người, ba tính cách khác nhau, giữa chốn khói lửa mịt mùng, đã nương náu vào nhau để cùng sống và chiến đấu. Tình cảm giữa họ không chỉ là tình đồng đội mà còn là tình ruột thịt. Khi Nho bị thương, Phương Định cũng đau đớn, xót xa như chính mình bị chảy máu. Cô chăm sóc cho cô em gái nhỏ tận tình, chu đáo. Có thể nói, “cái hang dưới chân cao điểm” ấy không chỉ là cao điểm của những trận bom mà còn là địa hạt của tình yêu, của những tấm lòng.
    “Những ngôi sao xa xôi” là khúc ca về những con người dũng cảm, hồn nhiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhiều hi sinh, gian khổ nhưng cũng rất vẻ vang. Phương Định là một trong số những ngôi sao đó. Cô tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam một thời, tiêu biểu cho những nữ thanh niên xung phong, dù trải qua bao khó khăn, nhưng vẫn luôn giữ vững tinh thần lạc quan và trái tim ấm áp. Sẽ còn mãi trong lòng độc giả Việt Nam hình ảnh cô gái Phương Định – một “ngôi sao xa xôi” sáng lấp lánh trong trái tim nhiều thế hệ bạn đọc.

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới