Viết thành một bài văn hoàn chỉnh phân tích khổ đầu và khổ cuối của bài ‘Bài thơ về tiểu đội xe không kính’ – Phạm Tiến Duật.

Viết thành một bài văn hoàn chỉnh phân tích khổ đầu và khổ cuối của bài ‘Bài thơ về tiểu đội xe không kính’ – Phạm Tiến Duật.
*Khổ đầu:
Không có kình không phải vì xe không có kính
Bon giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhín đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
*Khổ cuối:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
*Lưu ý kết hợp hai khổ thành một bài văn hoàn chình:33

1 bình luận về “Viết thành một bài văn hoàn chỉnh phân tích khổ đầu và khổ cuối của bài ‘Bài thơ về tiểu đội xe không kính’ – Phạm Tiến Duật.”

  1.  Phạm Tiến Duật là người con mảnh đất Thanh Ba, Phú Thọ. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ cứu nước. Thơ ông viết nhiều về hình tượng người lính và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. 
     Bài thơ ra đời vào năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quần lửa” của tác giả. Nhan đề gây ấn tượng sâu đậm vì dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc pử cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Làm nổi bật hình ảnh của nội dung tác phẩm: Những chiếc xe không kính. Hai chữ “bài thơ” thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả muốn nói về chất thơ hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ nguy hiểm của chiến trường ác liệt.
     Nguồn cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ, gây ấn tượng mạnh mẽ vì không chỉ một chiếc xe thôi mà là cả một “tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh:
       “Không có kính không phải vì xe không có kính
        Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
     Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như một lời nói của người chiến sĩ kể lể chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là chuyện bình thường, không có gì đáng nói, đáng quan tâm. Chi tiết tả thực “không có kính” mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ. Nếu vế đầu của câu thơ có tính chất phủ định thì vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “không phải vì xe không có kính”. À, thì ra trước kia chiếc xe vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đấy chứ. Vậy tại sao lại có sự không bình thường đó, vì sao cả một “tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ vào tư thế, vị trí của người chiến sĩ lái xe để trả lời: Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi… Thì ra lí do, nguyên nhân cũng tại chiến tranh mà ra cả. Điệp ngữ “bom” kết hợp với các động từ “giật, rung” đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc. “Mưa bom, bão đạn” của chúng dội xuống đường Trường Sơn thật dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom, đạn trúng vào khiến “kính vỡ đi rồi”. Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Trong hoàn cảnh chiến tranh,các người lính lái xe vẫn lái những chiếc xe thiếu kính chắn gió ra trận. Dẫu chiến tranh tàn bạo,trong hai câu thơ vẫn không có một từ,một âm thanh,ẩn ý nào nói lên nỗi khiếp sợ,cay đắng.Người chiến sĩ nhắc đến chiến tranh như một yếu tố ngoại cảnh,một thách thức để chủ yếu là nói đến thái độ của mình.
     Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
       “Ung dung buồng lái ta ngồi,
        Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
     Những câu thơ nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn trên đường. Hoàn cảnh chiến trường đối lập với lại tư thế của người chiến sĩ. Chiến trường “Bom giật,bom rung” dội xuống ác liệt,hiểm nguy mà anh lính vẫn “ung dung” ngồi đúng vị trí trong “buồng lái” đưa xe vượt Trường Sơn”. Câu thơ như bật ra từ trái tim người chiến sĩ lái xe sau tay lái. Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ đó xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng. Từ chiếc xe không kính người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm. hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên, cuộc sống và sự quyết tâm, vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi an toàn, mau đến đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!
     Trong không khí mưa bom bão đạn, những chiếc xe chuyên chở quân lương viện trợ cho miền Nam bị tàn phá đến mức méo mó, biến dạng:
       “Không có kính, rồi xe không có đèn,
        Không có mui xe, thùng xe có xước,”
     Điệp từ “không” kết hợp với phép liệt kê: không có kính, không có đèn, không có mui gợi ra hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Bom đạn và sự hủy diệt của kẻ thù in hằn dấu tích trên những chiếc xe, khiến những chiếc xe vốn thiếu thốn “không có kính” lại càng trở nên méo mó, không còn nguyên vẹn: không đèn, không mui, thùng xe bị xước. Nhịp thơ 3/2/3, 4/4 được thay đổi linh hoạt nên dù nói về hoàn cảnh khó khăn cùng những mất mát do chiến tranh mang lại nhưng câu thơ vẫn toát lên chất thơ, chất lính và cả cái hóm hỉnh, lạc quan của những người lính lái xe.
     Chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, hiểm nguy, ngay cả phương tiện chiến đấu là những chiếc xe cũng bị phá hủy đến tàn tạ, mất đi hình dáng ban đầu thì những người lính lái xe vẫn không nhụt chí, e sợ mà vẫn luôn lạc quan, chủ động làm chủ hoàn cảnh. Đoàn xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
       “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
        Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
     “Xe vẫn chạy” không chỉ gợi hình dung về đoàn xe nối đuôi nhau trên con đường Trường Sơn để vào chi viện cho miền Nam ruột thịt mà còn thể hiện quyết tâm chiến đấu, quyết không chịu đầu hàng trước hoàn cảnh của những người lính. Chỉ cần còn một hơi thở, những người lính vẫn giữ vững một niềm tin, một tinh thần quật cường vào tương lai tươi sáng của cuộc đấu tranh. Tiếng gọi của miền Nam, tiếng gọi của Tổ Quốc đã mang đến sức mạnh và quyết tâm chiến đấu mạnh mẽ cho những người lính.
     Hai câu thơ cuối cùng của bài đã tái hiện sống động vẻ đẹp của những người lính lái xe. Đó là những người lính gan dạ, kiên cường, không quản những khó khăn gian khổ, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy và cái chết kề cận để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả mà Tổ quốc giao phó: đấu tranh giải phóng đất nước. Có thể nói nhà thơ Phạm Tiến Duật đã rất thành công khi tái hiện được tình yêu nước và tinh thần thời đại của những người lính lái xe “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
     Đối lập với những cái không có, cái thiếu thốn của hoàn cảnh, phương tiện chiến đấu là một cái có. Đó chính là trái tim ấm nóng của người lính. Hình ảnh “một trái tim” được coi là kết tinh đẹp đẽ nhất cho toàn bộ nội dung tư tưởng của bài thơ. Trái tim vừa là ẩn dụ vừa là hoán dụ chỉ tình yêu nước, là ý chí, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam của những người lính lái xe. Chính tình yêu nước, lòng căm thù giặc đã giúp những người lính vững tay lái, sôi sục quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
     Bài thơ khai thác chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường chống Mỹ. Ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, có phần tinh nghịch. Thể hiện phong cách trẻ trung pha chút ngang tàng của người lính trẻ thời kháng chiến chống Mỹ.
     Bài thơ ca ngợi người chiến sĩ lái xe Trường Sơn dũng cảm hiên ngang tràn đầy niềm tin chiến thắng trong thời kỳ chống giặc Mỹ xâm lược. Bài thơ nhắc nhở mỗi con người chúng ta đặc biệt là thế hệ trẻ về tinh thần trách nhiệm, về tinh yêu quê hương đất nước. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện tiếp bước các anh giữ gìn Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
    @Oliver Wood
    18/5/2022

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới