Phân tích bài thơ Nhàn – https://tbdn.com.vn

Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn=> Triết lí sống Nhàn : Biết từ bỏ những thứ vinh quang phù phiếm vì đó chỉ là một giấc mộng, khi con người nhắm mắt xuôi tay mọi thứ trở nên không có ý nghĩa, chỉ có tâm hồn, nhân cách mới sống sót mãi mãi .+ Tuy nhiên, dại thực ra là khôn bởi ở nơi quê mùa con người mới được sống an nhiên, thanh thản. Khôn thực ra là dại bởi chốn quan trường con người không được sống là chính mình

+ Ban đầu có vẻ hợp lí vì ở chốn quan trường mới đem lại cho con người tiền tài danh vọng, còn ở thôn dã cuộc sống vất vả, cực khổ.

– Cụm từ phủ định “ dầu ai vui thú nào ” : Phủ nhận những nụ cười mà người đời thường hay theo đuổi .=> Cuộc sống ở quê nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó với việc làm nặng nhọc, khó khăn vất vả, lam lũ của một lão canh điền. Nhưng tác giả rất yêu và tự hào về nụ cười điền viên ấy .- Phép liệt kê phối hợp với số từ “ một ” : Gợi hình ảnh người nông dân đang điểm lại công cụ thao tác của mình và mọi thứ đã sẵn sàng chuẩn bị .

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491 – 1585 ) sống gần trọn một thế kỉ đầy dịch chuyển của chính sách phong kiến Nước Ta : Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chính sách phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn đời sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành với chủ cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên ý niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của đời sống tất bật vì danh lợi .
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để thể hiện ý niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy kết nối với ý niệm đạo lí của nhân dân, biểu lộ một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong vạn vật thiên nhiên cây xanh, giữ mình trong sáng .
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều mê hoặc .
“ Một mai, một cuốc, một cần câu ,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào ”
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách lựa chọn thú hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về đời sống “ ngư, tiều, canh, mục ” như một cách trái chiều dứt khoát với những loại vui thú khá, nhằm mục đích khẳng định chắc chắn ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ đời sống đậm chất dân quê này ! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu thơ độc lạ, mang lại vẻ từ tốn bình thản của nhà thơ trong đời sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện hữu của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những đồ vật lao động quen thuộc của người tầm trung trở thành hiện thân của đời sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những tâm lý của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc sống ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ đời sống của nhân dân tiềm ẩn những vẻ đẹp cao quý, một triết lí nhân sinh vững chắc .
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định chắc chắn một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh .
“ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ ,

Người khôn người đến chốn lao xao”

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc sống. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ý niệm tạo thành phản đề khẳng định chắc chắn cho thái độ sống cùa Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để giám sát, tranh giành thiệt hơn, vì vậy thực ra dại – khôn là thói thực dạng ích kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và trái chiều với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dữ thế chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “ Người đời tỉnh cả, một minh ta say ” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng cho nên vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của đời sống nhàn tản :
” Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ”
Khác hẳn với lối tận hưởng vật chất đắm mình trong vẻ vang, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những tặng thêm của một vạn vật thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ vạn vật thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát nét thân thiện với triết lí “ vô vi ” của đạo Lão. “ Thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang chảnh bằng toàn bộ cái hồn nhiên trong sáng của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa hình tượng kết nối với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với vạn vật thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được tăng trưởng toàn vẹn bằng sự chứng minh và khẳng định :
“ Rượu đến cội cây, ta sẽ uống ,
Nhìn xem phong phú tựa chiêm bao. ”
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đă nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với sự nghiệp giàu sang. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế xấu đi, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại thể hiện ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo sự nghiệp phong phú vốn dĩ ông chán ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
“ Ơ thể mới hay người bạc ác ,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui ”
( Thói đời )
Phú quý đi với chức quyền so với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là đời sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng ghét bỏ và lên án trong bài thơ ‘ ‘ Tăng thử ” ( Ghét chuột ) của mình. Bởi thế, hoàn toàn có thể hiểu thái độ nhìn xem phong phú tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ lựa chọn con đường sống thân mật, san sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người tầm trung đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với ý niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân .
Bài thơ “ Nhàn ” bao quát hàng loạt triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện toàn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với vạn vật thiên nhiên, với đời sống của nhân dân để trái chiều một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm tay nghề sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính .

Nguồn: Sưu tầm

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Loigiaihay.com

Source: https://tbdn.com.vn
Category: Văn học

Viết một bình luận

Câu hỏi mới