Phân tích Tràng Giang của Huy Cận. – https://tbdn.com.vn

Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn+ Câu thơ cuối đậm chất cổ xưa khép lại bài thơ đã miêu tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê nhà quốc gia của nhà thơ .+ Hình ảnh “ dờn dợn vời con nước ” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm xúc buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê nhà da diết .

+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.

+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác tiếp nối đuôi nhau nhau “ đùn ” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc .=> Ở nơi đây không có bất kỳ thứ gì kết nối đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân thiện giữa con người với nhau- Hình ảnh “ bèo dạt về đâu hàng nối hàng ” : gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu .- Hai câu sau, khoảng trống như được lan rộng ra cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự đơn độc đến tột cùng của lòng người+ Câu thơ “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều ” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người=> Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả .+ Hình ảnh “ củi một cành khô lạc mấy dòng ” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “ sầu trăm ngả ” .=> Hình ảnh trái chiều giữa khoảng trống sông nước bát ngát với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên sự đơn độc, le loi của con người- Từ “ điệp điệp ” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm khoảng trống to lớn, bát ngát .=> Từ Hán Việt, tích hợp với vần “ ang ” tạo đô ngân vang liên tục, gợi ra hình ảnh con sông vừa dài vừa rộng .

Bài mẫu

Trước Cách mạng tháng Tám, vạn vật thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn – nỗi buồn tiêu biểu vượt trội cho cả một thế hệ thơ mới. Bài thơ Tràng giang ( 1939 – trích từ tập Lửa thiêng ) bộc lộ cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài ; nỗi đơn độc, bơ vơ của con người ngay giữa quê nhà mình. Bài thơ còn biểu lộ tình yêu quốc gia thầm kín của nhà thơ
Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bát ngát, bát ngát hơn ( tràng giang đại hải ). Tác giả dùng từ Hán – Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông .
Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm xúc dịu dàng êm ả trong khoảng trống quạnh vắng như tiềm ẩn sẵn nỗi buồn : buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả : sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính ;
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán .
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ .
( Thuyền đi )
Hình ảnh bổ trợ cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông :
Củi một cành khô lạc mấy dòng .
Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bát ngát, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu .
Khổ thơ gợi tả cảnh với khoảng trống sông nước bát ngát với những đường nét : song song, điệp điệp, nhưng lại : sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì quy tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông to lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm điển hình nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận một mình, nhỏ bé của con người. Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người đơn độc, lạc loài trong cuộc sống cũ .
Khổ thơ thứ hai liên tục mạch thơ khổ đầu nhưng khoảng trống được lan rộng ra ra và đẩy lên cao hơn .
Lơ thơ cồn nhỏ, gió vắng vẻ
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều ,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu .
Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió vắng ngắt làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt. Không gian lan rộng ra sang bên bờ : cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa … Cảnh chợ chiều có gợi đến đời sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi biến mất dần trong cảnh mênh mang yên lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc sống nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ đời sống quê nhà .
Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng :
Nắng xuống trời lên sâu chót vót .

    Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu .
Dòng sông, bến bãi rộng lớn, đến khung trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng đời sống nên mong tìm về với đời sống .
Nhưng cảnh càng Open càng lạc lõng, hờ hững :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyển đò ngang
Không cầu một chút ít niềm thân thương
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng .
Các sự vật được bên nhau : bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một quốc tế không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của đời sống nhưng toàn bộ đều bát ngát xa vắng được nhấn mạnh vấn đề bởi hai lần phủ định :
Mênh mông không một chuyển dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân thiện .
Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ tiếp xúc. Chỉ có mặt nước bát ngát lạng lẽ .
Tới ngã ba sóng nước bốn bề ,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê
( Em về nhà )
Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng đời sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê nhà mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, đời sống, với quê nhà :
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm
( Đảo )
Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa :
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ,
Chim nghiêng cánh nhỏ ; bóng chiều sa .
Lòng quê dợn dợn vời con nước ,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh lung linh ánh nắng trời. Tác giả bình : “ Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp ”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ. Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường : “ Mặt đất mây đùn cửa ải xa ” ( Đỗ Phủ ) nhưng lại có vẻ như đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều Open làm cho bức tranh them sinh động, thơ mộng, xinh xắn nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho khoảng trống như có hình khối, khối lượng và vạn vật thiên nhiên có vẻ như như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê nhà :
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai .
( Hoàng Hạc Lâu )
Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê nhà. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên do chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê nhà khi đúng ngay giữa quê nhà mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm thế nào ! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát .
Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc sống, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê nhà quốc gia, sự nâng niu so với tiếng Việt .
Vì vậy, Xuân Diệu nhìn nhận : “ Tràng giang là một bài thơ ca hát giang sơn quốc gia, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc ”. Bài thơ bộc lộ cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của vạn vật thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ xưa ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét rực rỡ của thơ văn minh ở khoảng trống sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ .

Xem các bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Bài tham khảo số 5

Loigiaihay.com

Source: https://tbdn.com.vn
Category: Văn học

Viết một bình luận

Câu hỏi mới