CÂY ĐU ĐỦ
Cây đu đủ đực là giống cây đu đủ chỉ ra hoa mà không đậu quả. Thường thì được dùng làm thuốc trong 1 số ít trường hợp như bong gân hay đau chân tay, một số ít bệnh về xương khớp
Tên khoa học: Carica papaya L
Họ đu đủ (Caricaceae )
Tên khác: Phiên qua phụ, phiên mộc, mắc rẩu, mắc váu
Bộ phận làm thuốc: quả, hạt, hoa đực, lá, rễ, nhựa- Fructus, semen, Flos masculus, Folium, Radix et Latex caricea Popayea; papain ( trong nhựa) và cacpain ( alcaloid trong lá ,quả, hạt).
Thành phần hóa học: Trong quả chín có tầm 95% nước, các chất đường, trong đó có chủ yếu là Glucose 8,5 %, một ít bectin, chất béo, một ít muối vô cơ ( Ca, Mg, P, Fe), vitamin A, B, C. Quả đu đủ xanh có papain, saccharose, nhiều nhựa, axid hữu cơ, và các vitamin B1, B2,. Papain có ở lá, thân và quả. Hạt có gluco tropaeolin. Lá chứa các ancaoloid carpain, poeudocapain và một lượng lớn cholin. Ngoài ra còn có saponin, carposid và một số ancaloid khác ở mức độ vi lượng. Trong rễ có nhiều kali myronat.
Các bộ phận khác nhau của cây như thân, rễ, lá đều chứa chất nhựa mủ. Trong nhựa có chứa men Papain có năng lực hòa tan một khối lượng tơ huyết ( fibrin ) gấp 2000 lần khối lượng của nó .
Công dụng: Quả đu đủ chín là một món ăn bổ dưỡng, giúp sự tiêu hóa các chất thịt, chất albumin. Quả đu đủ xanh được chỉ định, dùng trong suy thiểu năng tiêu hóa, dạ dày và tụy. Trong sự giảm dịch vị hay lên men dạ dầy, trong viêm dạ dày mạn tính, lên men ruột và viêm dạ dày, ruột non của trẻ em.
Quả đu đủ xanh dùng ăn sống trong 3 ngày liên tục hoàn toàn có thể gây sẩy thai ; quả đu đủ chín dùng ăn hàng ngày sẽ ức chế sự thụ thai. Hạt thường dùng làm thuốc trị giun, rễ dùng trị sốt rét và thuốc lợi tiểu. Lá đu đủ dùng tiêu mụn nhọt. Lá nấu nước dùng tẩy sạch vết máu ở vải và vết loét, vết thương, sát trùng. Nhựa đu đủ bôi mặt bị tàn nhang và các vết nhơ khác ở da, hắc lào mới phát, các loại nở sần da ngoan cố. Hoa đu đủ dùng trị ho gà .
KỸ THUẬT TRỒNG VÀ THU HÁI
Trồng bằng hạt: Thu hạt đu đủ ở phần giữa quả đu đủ chín trên cây, chà sát nhẹ và đãi bỏ lần vỏ nhớt ở ngoài rồi phơi trong bóng râm đến khô. Hạt đu đủ có thể bảo quản qua vài năm ở trong lọ nút kín. Một kg hạt khô có khoảng 68.000 hạt. Mỗi ha chỉ cần gieo 6000 – 7000 hạt (~ 100 g).
– Thời vụ gieo hạt ở miền bắc vào tháng 7, trồng vào tháng 9 ; ở Đông nam bộ và Tây nguyên, gieo tháng 2 – 3, trồng tháng 4 – 5 ; ở Tây nam bộ gieo tháng 10 – 11, trồng tháng 12 – 1 .
Trồng ở phạm vi gia đình: Có thể gieo hạt vào hốc đào sẵn đã bón phân lót. Mỗi hốc gieo vài hạt. Khi cây mọc chỉ cần bỏ những cây trung bình có lá xanh lục hơi vàng, chia nhiều thùy, gốc cây hơi cong. Theo kinh nghiệm của nhân dân, đó là những cây cái.
Trồng đại trà trên diện tích lớn: phải gieo hạt vào bầu, khi cây có 3 – 4 lá thật, chọn cây đều nhau, khỏe mạnh đem trồng.
– Đu đủ trồng được trên đất thoát nước, giữ ẩm tốt, không quá chua và độ PH thích hợp là 6 – 6,5 .
– Đất trồng phải làm kỹ, không cần lên luống mà làm mương tưới – tiêu thuận tiện .
– Đào hố 40 x 40 x 40 cm với khoảng cách 1 x 1 m. Giống cây thấp hoàn toàn có thể trồng dày hơn .
– Mỗi hố bón lót 12 – 20 kg phân chuồng hoai mục, 0,5 – 1 kg phân supe lân, 0,5 kg vôi bột, 0,2 – 0,3 kg kali sulfat. Trộn đều phân với đất, đổ xuống hố và vun cao 25 – 30 cm .
– Trồng 2 – 3 cây vào hốc đã đào sẵn. Trồng xong cần tưới ngay và giữ ẩm liên tục. Dùng rơm, dạ, cỏ khô để phủ gốc .
Chú ý : Vun gốc cho cây khỏi đổ và tưới nước hợp lý, kịp thời, bảo đảm thoát nước.
– Do bón nhiều phân nên cỏ tăng trưởng nhanh, cần làm cỏ tiếp tục bằng tay, tránh làm đứt rễ đu đủ
– Sâu hại hầu hết là rệp sáp hại quả và lá non, dùng Bi 58 ( 0,1 – 0,2 % ), Mipxin ( 0,1 – 0,2 % ) ; nhện đỏ, rệp, rầy, bọ nhẩy, dùng Kenthane ( 0,3 % ) hoặc Decis ( 0,1 % ) để trừ
– Bệnh hại thường xuyên có bệnh thối rễ (Phytophthora ) do đất quá ẩm, bệnh phấn trắng ( Odium caricea), nguy hiểm nhất là bệnh hoa lá ( virus). Bệnh thối cổ rễ có thể phòng bằng cách khơi rãnh thoát nước kịp thời. Bệnh phấn trắng dùng Benlat, Zineb và các thuốc có lưu huỳnh để phun. Đối với bệnh hoa lá, tốt nhất là nhổ bỏ cây bệnh.
Thu hoạch. Sau khi trồng 8 – 10 tháng có thể thu hoạch, nhưng thu hoạch cao nhất vào năm thứ 3 trở đi.
Vấn đề khó trong việc trồng đu đủ là trong việc phân biệt cây đực, cái. Có người nói hạt đu đủ cái đen hơn và cây đu đủ cái có rễ cong queo nhưng chưa có cơ sở chính sác .
- Thu hoa: thu vào mùa hè – thu khi cây bắt đầu ra hoa.
- Cách thu nhựa: khi quả đu dủ được 2 tháng tuổi, đạt khoảng ½ kích thước tối đa, đường kính được 10cm, dùng lưỡi dao cạo rạch tối đa 3mm, dọc theo chiều dài quả, khoảng cách giữa 2 đường cách nhau tối đa 3 – 5 cm ở chỗ quả to nhất, khía sâu quá chất lượng mủ sẽ kém. Khía lúc 6h sáng thì đến 9h mủ đã khô, có thể thu hoạch. Không khía mủ lúc trời mưa, không để mủ ngoài nắng, mủ sẽ bị phân hủy. Mỗi tuần có thể lấy mủ 2 – 3 lần. Mỗi quả lấy mủ 3 – 4 lần là đã đạt sản lượng tối đa. Tỷ lệ mụ thu được đạt 4% trọng lượng quả. Lấy mủ xong quả vẫn chín tốt.
- Khi cây trưởng thành có thể thu lá quanh năm, thu những lá dưới cùng đã tương đối già nhưng vẫn còn màu xanh. cắt thành từng đoạn 3 -4 cm rồi đem phơi hay sấy khô.
Bài thuốc chữa sai khớp, bong gân: Đu đủ xanh, lá na, mỗi vị 10g; muối ăn,vôi tôi, mỗi vị 5g. Giã nhỏ rồi cho vào gạc đắp lên chỗ sưng đau và băng lại, sau khi đã nắn hình chỉnh khớp.
Source: https://tbdn.com.vn
Category: Kinh Nghiệm Hay