Đề :Thuyết minh nón lá Huế

Đề :Thuyết minh nón lá Huế

1 bình luận về “Đề :Thuyết minh nón lá Huế”

  1. Bạn tham khảo nha, bài này mình làm trên lớp rồi ấy.
    Mỏng manh chiếc nón, ấy mà
    Che mưa che nắng đường xa mẹ về
    Từ phố thị đến làng quê
    Ở đâu nón cũng nguyện che mái đầu
    Nón che cái nắng qua cầu
    Chị đi đến lớp mặc dầu nắng oi
    Nón che từng giọt mưa rơi
    Chiều đông cha vẫn ra nơi ruộng đồng
    Giúp người nón mãi ước mong
    Dẫu bao mưa nắng nón không ngại ngần.
                                  [Nguyễn Lãm]
    Bài thơ trên của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Lãm là chỉ đến chiếc nón lá quen thuộc của Việt Nam chúng ta, tuy chỉ làm bằng lá mỏng manh nhưng lại che nắng che mưa cho mẹ khi ra chợ bán buôn, cho chị khi qua cầu giữa trưa nắng gắt đi học, cho cha vất vã nơi ruộng đồng . Vậy bạn hiểu biết bao nhiêu về vật nhỏ bé nhưng lợi hại, có ít cho cuộc sống này như thế nào đây? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài thuyết minh này nhé!
    Nón, nón lá hay nón tơi là vật dụng để che nắng, che mưa và là một biểu tượng đặc trưng của người dân Việt Nam, xuất hiện vào thế kỉ XIII thời Trần. Từ xa xưa do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng và mưa nhiều, tổ tiên ta đã biết sáng chế ra chiếc nón lá. Nó được lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dần dần chiếc nón lá đã hiện diện như một vật dụng cần thiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm TCN.
    Chiếc nón lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá dứa, lá du quy diệp dùng để làm nón v.v… nhưng chủ yếu làm bằng lá nón. Nón thường có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ.
    Nón thường có hình chóp nhọn, tuy nhiên còn có cả một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung, được ghim lại bằng sợi chỉ, hoặc các loại sợi tơ tằm, sợi cước. Nan nón được chuốt thành từng thanh tre mảnh, nhỏ và dẻo dai rồi uốn thành vòng tròn có đường kính to nhỏ khác nhau thành những cái vành nón. Tất cả được xếp tiếp nhau trên một cái khuôn hình chóp.
    Để làm ra một chiếc nón lá người thợ thủ công lấy từng chiếc lá, làm cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên, rồi lấy kim xâu chừng 24-35 chiếc lá lại với nhau cho một lượt sau đó xếp đều trên khuôn nón. Lá nón mỏng và cũng dễ hư khi gặp mưa nhiều nên các thợ thủ công đã tận dụng bẹ tre khô để làm lớp giữa hai lớp lá nón làm cho nón vừa cứng lại vừa bền.
    Trong công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây cột chặt lá nón đã trải đều trên khuôn với khung nón rồi họ mới bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước với kim khâu để chằm nón thành hình chóp. Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và có tính thẩm mĩ (có thể kể thêm trang trí mĩ thuật cho nón dùng trong nghệ thuật). Ở giữa nan thứ 3 và thứ 4 người thợ dùng chỉ đôi kết đối xứng 2 bên để buộc quai. Quai thường được làm từ nhung, lụa mềm, có nhiều màu sắc.
     Một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng: Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)… những địa điểm này khi du khách đến sẽ được trực tiếp trải nghiệm làm nón lá qua sự hướng dẫn của nghệ nhân, du khách nước ngoài cũng sẽ hiểu hơn về những truyền thống, văn hoá người Việt. Nói đến một chút về nón lá ở Huế, khi mua nón lá chúng ta sẽ được gặp những thiếu nữ duyên dáng trong bộ áo dài tím, giọng dễ thương tay cầm những chiếc nón lá Bài thơ nổi tiếng, cũng là một điểm cuống hút và mới lạ đối với du khách khi tìm đến mua nón lá tại Huế.
    Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá lụi, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa); nón cụ (loại nón thường xuất hiện trong các đám cưới miền Nam Việt Nam); nón ba tầm (loại nón phổ biến ở miền Bắc Việt Nam); nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ); nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua ở viền nón); nón gõ (nón làm bằng rơm, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón lá tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ “nón thúng quai thao”); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp),… nhưng thông dụng nhất vẫn là nón hình chóp.
    Nón thường dùng để che nắng, che mưa, làm quạt khi nóng. Đôi khi có thể dùng để múc nước cho các bác nông dân vất vả nơi ruộn đồng hoặc để đựng vài cái bánh ú cho bà mẹ thôn quên vừa bày hàng chợ vừa ăn. Ngày nay nón lá cũng được xem là quà tặng đặc biệt cho du khách khi đến tham quan Việt Nam.
    Muốn nón lá được bền lâu thì nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa, tránh dùng mạnh tay làm méo nón. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, nếu phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm thời hạn sử dụng của nón.Khi đội nón phải nhẹ nhàng, tránh làm hư quai nón, không sử dụng cần treo lên tránh những nơi ẩm ướt, lau khô khi bị ướt. Không ngồi lên, hay đè, nắn nón.
    Làng nghề Chuông (nón lá) ở Hà Nội thường có tiết mục múa nón lá nổi danh được giữ lại từ nhiều đời và nay tuy có cải biên đôi chút nhưng vẫn giữ được nét cổ xưa, đồng thời mang một ít tính hiện đại của người dân theo từng giai đoạn phát triển. 
    Từ phong kiến xa xưa chứng kiến Lý ngã Trần lên, đến giai đoạn dân ta bị thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ thay nhau đô hộ nón lá vẫn mãi đấy, vẫn được xem là một chứng nhân lịch sử. Vậy ta cần tiếp tục lưu truyền nghề làm nón lá cho con cháu đời sau và cho thế giới nhiều người biết hơn về nón lá Việt Nam.
     @hongphucnguyen
     

    Trả lời

Viết một bình luận

Câu hỏi mới