Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý phân tích tác phẩm Rừng xà nu chi tiết và cụ thể của Đọc Tài Liệu với hệ thống luận điểm, luận cứ, sơ đồ tư duy kèm theo bài văn mẫu hay và chất lượng giúp các em tham khảo.
Cùng tìm hiểu thêm ngay …
Hướng dẫn lập dàn ý phân tích tác phẩm Rừng xà nu
1. Phân tích đề
– Kiểu đề: thuộc dạng đề nghị luận văn học (phân tích tác phẩm văn học)
Bạn đang đọc: Dàn ý phân tích tác phẩm Rừng xà nu | Văn Mẫu 12
– Vấn đề nghị luận : nội dung, nghệ thuật và thẩm mỹ của truyện ngắn Rừng xà nu ( Nguyễn Trung Thành )
– Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các chi tiết, câu văn, từ ngữ thuộc phạm vi văn bản Rừng xà nu.
2. Xác lập vấn đề, luận cứ
– Luận điểm 1: Hình tượng cây xà nu, rừng xà nu
+ Rừng xà nu, cây xà nu là một hình ảnh thực, chân thực .+ Rừng xà nu, cây xà nu là hình ảnh mang ý nghĩa hình tượng cho số phận và phẩm chất của con người Xô Man .
– Luận điểm 2: Các thế hệ anh hùng của làng Xô Man và của mảnh đất Tây Nguyên.
+ Nhân vật cụ Mết+ Nhân vật Tnú+ Nhân vật Dít+ Nhân vật bé Heng
3. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Rừng xà nu
4. Chi tiết dàn ý phân tích tác phẩm Rừng xà nu
a) Mở bài
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về mảnh đất này ( tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng xà nu, … ) .- Rừng xà nu – thiên sử thi Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh giành tự do của con người Tây Nguyên gan góc .
b) Thân bài
* Phân tích hình tượng cây xà nu
– Là loài cây có sự gắn bó thâm thúy với mảnh đất Tây Nguyên : gắn với hoạt động và sinh hoạt hằng ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng : lửa xà nu cháy trong nhà bếp, đuốc xà nu cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ….- Loài cây chịu sự tàn phá kinh hoàng của cuộc chiến tranh : đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Mượn nỗi đau của cây xà nu để nói về nỗi đau của dân làng Xô Man .- Loài cây có sức sống mãnh liệt : sinh sôi nhanh gọn “ bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên ” ( đầu tác phẩm ), “ cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên ”. Đó là hình ảnh hình tượng cho sức sống can đảm và mạnh mẽ và sự tiếp nối đuôi nhau của những thế hệ con người Tây Nguyên .- Loài cây ham ánh sáng, như những người dân Tây Nguyên yêu tự do, có khát vọng sống mãnh liệt .
* Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên
– Nhân vật cụ Mết+ Ngoại hình : quắc thước, “ râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng ”, “ vết sẹo ở má phải ”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “ đôi bàn tay nặng trịch như kìm sắt ”, “ ngực căng như một cây xà nu lớn ”, … mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên .+ Giọng nói “ ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân lí “ không có gì mạnh bằng cây xà nu … ”, “ cán bộ là Đảng, … nước này còn ”, “ chúng nó cầm súng … cầm giáo ” .+ Tích cách, phẩm chất : quả quyết, dũng mãnh, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết là hình tượng thế hệ anh hùng đi trước, quy tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên .- Nhân vật Tnú+ Từ nhỏ đã mang những nét tính cách khác thường : xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh gọn, bị giặc bắt mà không sợ hãi, chỉ tay vào bụng “ cộng sản đây này ” .+ Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng :
- Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.
- Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc,…
=> Tnú là người con xuất sắc ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương cá thể vì quyền lợi của hội đồng .- Nhân vật Dít+ Là người con gái gan góc, dũng mãnh, có sức chịu đựng khác thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù : đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, …- Nhân vật bé Heng+ Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm trách nhiệm : thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng .
+ “là lứa xà nu mới mọc nhưng đã nhọn hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên vững chắc.
=> Họ là một tập thể anh hùng luôn tiếp nối đuôi nhau những truyền thống lịch sử tốt đẹp : giàu tình yêu thương, căm thù giặc thâm thúy, trung thành với chủ với cách mạng. Qua họ hoàn toàn có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên .» Phân tích phẩm chất anh hùng của những nhân vật trong Rừng xà nu
c) Kết bài
– Khái quát nghệ thuật và thẩm mỹ : với cấu trúc truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng rực rỡ, ngôn từ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị và đơn giản, xây dựng hình tượng, …- Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi văn minh tái hiện vẻ đẹp trang trọng, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống cuội nguồn văn hóa truyền thống Tây Nguyên .Dưới đây là bài văn mẫu phân tích tác phẩm Rừng xà nu do Đọc tài liệu tổng hợp được nhằm mục đích ra mắt đến những em tìm hiểu thêm, lan rộng ra vốn từ ngữ cũng như học hỏi cách trình diễn, hành văn :
Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Rừng xà nu
Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên quật cường kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vô số những anh hùng dân tộc bản địa đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc dân tộc bản địa, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ .Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung tích hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử vẻ vang khẳng định chắc chắn .
“Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu – một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Và đặc biệt quan trọng đó cũng là một rừng xà nu mặc kệ đạn bom, vượt lên sự diệt trừ tàn tệ để tiếp đón ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn ngập sức sống mặc dầu đại bác của bọn giặc “ đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy ” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở màn và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc .Suốt trong quy trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm xúc như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu … Mọi thứ có vẻ như đều xoay quanh loại cây đặc biệt quan trọng này. Người đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống vững chắc, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên quật cường .Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc nhìn, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là những hình ảnh ” đồi xà nu ” ( 4 lần ), ” rừng xà nu ” ( 5 lần ), với ” hàng vạn cây ” ” ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng ” .Hình ảnh cây xà nu mở màn truyện như cách mở màn của bức tranh đấu tranh kinh khủng của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật và thẩm mỹ nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của quân địch. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống .Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn từ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh xảo ở một thứ ngôn từ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng đa dạng chủng loại cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ ham ánh sáng mặt trời ”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, quật cường, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực hiện hành cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành với chủ che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và hoàn toàn có thể nói rừng xà nu chính là hình tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Nước Ta .Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực hàng loạt cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống cuội nguồn anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với quân địch mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ người trẻ tuổi đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man .Tnú nhân vật chính của Rừng xà nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng, nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc bản địa lớn lên, trưởng thành và kiên cường quật cường từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc bản địa .Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời gian của những ngày gian nan, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã tận mắt chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “ treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng ”, chỉ vì họ là những người quả cảm, dám nuôi giấu cán bộ cách mạng .Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, đảm nhiệm tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, sống lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ tỉnh bơ chỏ vào bụng mình để vấn đáp câu hỏi cùa quân địch : ” Cộng sản ở đây này ”. Câu vấn đáp ấy đâu chỉ đơn thuần là một câu vấn đáp mà đó là cả một lời thử thách, sự gan góc ! Và chính lời thử thách ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù .Thoát ngục Kon Tum quay trở lại, Tnú là một người trẻ tuổi, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ trách nhiệm của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người chỉ huy cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh triển khai ngay lời dặn của anh Quyết “ sẵn sàng chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná … ” chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ thiết yếu cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và niềm hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người một nửa yêu thương của anh .Lại một thử thách nữa đến với Tnú : bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra cạnh tranh đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc cạnh tranh đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn khi nào hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “ Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc “, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào quân địch .Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, quật cường. Sự hung tàn của quân địch đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không hề cam chịu sống dưới ách tàn tệ đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “ Tiếng giết ”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh … Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng quốc gia với một nhận định và đánh giá thâm thúy hơn .Điều này hoàn toàn có thể thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ ba năm đi lực lượng ”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chỉ huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “ cũng la thằng Dục cả ”. Rõ ràng, với anh chiếu sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của quốc gia cũng là mối thù của mái ấm gia đình, của quê nhà anh. Đó là một nhận thức thâm thúy, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của quốc gia và từ cuộc chiến đấu của quê nhà .Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “ còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ … “. Vậy mà, khi Tnú trở lại, cô bé ấy đã đảm trách những việc làm trọng điểm nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì khôi của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quy trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé mưu trí, rất gan góc. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “ Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách nát tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng ” .Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “ lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc ”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người chỉ huy cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “ đôi mắt mở to bình thản trong suốt ”. Ấy vậy, chị không quên nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi hỏi “ chiến sỹ có giấy không ? ”, khi công bố dứt khoát “ không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi ” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “ sao anh về có một đêm thôi ”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê nhà, đành rằng hình thức bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh nhạt bình thản .Tnú và Dít tiêu biểu vượt trội cho thế hệ người trẻ tuổi làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc bản địa và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thống cuội nguồn anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện thay mặt cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man .Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa niềm tin của dân làng. Tuy già nhưng “ cụ vẫn quắc thước như xưa … ngực cũng như một tấm xà nu lớn … lời nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực ”, vẫn sáng suốt ngày đêm chỉ huy cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc sống cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm tay nghề quý báu, cho nên vì thế cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương quật cường của quê nhà .Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn ác của bọn thằng Dục, cụ Mết càng đồng cảm : Đối với quân địch “ chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không ” thì không thể nào cạnh tranh đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên ! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ tương lai : “ Nghe rõ chưa, những con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo ’ ’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng .Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật lịch sử một thời, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định chắc chắn vai trò của thế hệ đi trước so với thế hệ trẻ ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống lịch sử, với lịch sử vẻ vang quê nhà, vừa là người dẫn dắt thế hệ người trẻ tuổi trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít … có sự trưởng thành lớn lao .Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng thâm thúy cho người đọc .Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những game show vui nhộn nhưng quốc gia còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có hình dáng của “ một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang sống lưng ”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là tự hào và tin cậy với một lớp người như bé Heng ! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng danh với thế hệ cha anh .
» Sưu tầm và tuyển chọn top 3 bài văn hay nhất phân tích Rừng xà nu
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện khởi đầu từ hiện tại từ cái thời gian anh chiến sỹ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê nhà ‘ ‘ sau ba năm đi lực lượng ” rồi ngược dòng thời hạn trở lại quá khứ .Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ. Những mảng đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với quân địch, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc bản địa và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc bản địa sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng danh với cha ông .Chính cái tư tưởng này đã chi phối cấu trúc của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, hầu hết được tổ chức triển khai theo sự tăng trưởng tâm lí tính cách nhân vật TT, chứ không theo trật tự thời hạn thường thì. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện kèm theo tập trung chuyên sâu miêu tả những trường hợp gay cấn làm điển hình nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng tương thích với ý nghĩa chính luận của tác phẩm .Hai lần cạnh tranh đối đầu trực tiếp với quân địch là hai lần Tnú bộc lộ rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất yếu tác phẩm này bộc lộ ở mỗi lần có khác nhau và có sự tăng trưởng. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần cạnh tranh đối đầu với quân địch, Tnú rực sáng kiên cường quật cường trước bóng đen tàn khốc của quân địch .Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết cụ thể tiêu biểu vượt trội có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết cụ thể giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả : một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn .
Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình, Nguyên Ngọc thường trải những cảm hứng trữ tình của ông về con người, quốc gia quê nhà. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân trong gia đình, theo dòng suy tưởng về quê nhà của Tnú … lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn từ của một bài thơ ( ví dụ : đoạn mở màn tác phẩm ). Chính cái vẻ của lời văn đã góp thêm phần tạo nên sức mê hoặc của tác phẩm .
Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Tuyển chọn Văn mẫu 12 hay nhất / Đọc Tài Liệu
Source: https://tbdn.com.vn
Category: Văn học