Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng môn văn lớp 12

Tổng hợp hơn 5 bài phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng không chép mạng toàn bài và từng khổ thơ được các bạn học sinh làm và hơn 10 dàn ý phân tích chi tiết để các bạn tham khảo làm bài thật tốt.

Bài mẫu số 1: Phân tích bài thơ Tây Tiến toàn bài

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.

Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào dĩ vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:ADVERTISING

X

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”

Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dường như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.

Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: “những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nét cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khuỷu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là một dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.

Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục súng mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, súng vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bắt gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

(Lê Anh Xuân)

Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây Tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền Tây Bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành quân của những người lính Tây Tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn còn tươi mới đây thôi.

Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo từ bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”

Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.

Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ “đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.

Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.

Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “mắt trừng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây Tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc, ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính Tây Tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.

Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

Thì làm gì còn tổ quốc”

(Trường ca những người đi tới biển)

Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây Tiến gầm lên khúc độc hành”

Chiếc “áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính Tây Tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đây Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.

Những người lính Tây Tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.

Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây Tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

Bài mẫu số 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến toàn bài

“Chiến tranh – Người lính” là đề tài muôn thuở trong các sáng tác thơ ca của nhiều nhà thơ. Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì đến Quang Dũng, ông đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn, đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Quang Dũng được biết đến là một người nghệ sĩ đa tài : viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…thế nhưng phải nói đến ông là một hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế nhưng đầy lãng mạn. Ông đã rất thành công khi viết về đề tài người lính và “Tây Tiến” là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa thể hiện nỗi nhớ da diết của chính nhà thơ về cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của người lính binh đoàn Tây Tiến, vừa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước của những người chiến sĩ Cách mạng thời kháng chiến chống Pháp.

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những thanh niên tri thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Sau khi dời đơn vị cũ chưa được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này, lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau nhà thơ đổi lại thành “Tây Tiến”. Tây Tiến, tên gọi ấy của bài thơ gợi lên âm hưởng quân hành vào thời đặc biệt phát triển những khúc hát Nam Tiến, Tiến quân ca, …Phải chăng nhà thơ đã xóa mất chữ Nhớ để khiến cảm giác về hành khúc mạnh mẽ hơn? Nỗi nhớ da diết ấy luôn rạo rực, hiện lên trong từng câu thơ, từng nét bút của Quang Dũng – đó là nét cảm hứng lãng mạn xuyên suốt tác phẩm.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất mộng mơ, trữ tình qua 14 câu thơ dạt dào cảm xúc. Hai câu thơ đầu chính là nỗi nhớ về Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ và cũng là nguồn cảm xúc chủ đạo bao quát toàn bài :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh con sông Mã hiện lên trong tâm thức nhà thơ, con sông gắn liền với chặng đường hành quân dài đằng đẵng của những người lính. Câu thơ cảm thán “ơi!” và điệp từ “nhớ” như đang khắc họa đậm nét hơn về nỗi nhớ : Nhớ đồng đội, nhớ núi rừng Tây bắc. “Nhớ chơi vơi”, hai tiếng chơi vơi ở đây được nhà thơ sử dụng rất đắt –đó là nỗi nhớ không có hình, không có tượng tưởng chừng nhẹ tênh mà nặng nề vô cùng. Bởi nó không đo được, chỉ biết lửng lơ, đầy ắp, ám ảnh trong tâm trí thi nhân. Trong thơ văn rất ít ai diễn tả cảm xúc như thế, ca dao cũng chỉ có một lần nhắc về nỗi nhớ ấy “Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Nỗi nhớ về dòng sông Mã –một chứng nhân lịch sử, nỗi nhớ về Trung đoàn tây tiến năm nào đã trải qua biết bao gian khổ cùng nhà thơ cũng chính là nỗi nhớ da diết về núi rừng Tây Bắc. Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cho người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ khi nhớ về những năm tháng xưa.

Khi những kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Chính vì thế mà từ câu thơ thứ ba, những hình ảnh sống động như xuất hiện trong hiện tại, chính điều này đã làm cho bài thơ phảng phất dáng dấp của một khúc quân hành hơn là một hồi tưởng. Và cứ như thế, từng kí ức lại ùa về được Quang Dũng vẽ lại bằng một bức tranh thơ qua sáu câu thơ tiếp theo- đó là bức tranh hùng vĩ, dữ dội nhưng đầy thơ mộng của núi rừng Tây Bắc :

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Trong đoạn thơ trên, hàng loạt tên bản làng, địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến được nhà thơ nhắc tới : Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…tất cả đều là những địa danh in đậm dấu chân đoàn quân Tây Tiến anh hùng. Không phải ngẫu nhiên mà Quang Dũng lại nhắc về những địa điểm ấy mà đó là cảm hứng của cả một thời Cách mạng phát hiện ra đất nước “Những tên làng, tên núi, tên sông / Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”, một nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã viết như thế !

Tây Tiến dẫn con người lên đến độ cao, vào chốn thâm u của biên giới. Ấn tượng đầu tiên về núi rừng Tây Bắc chính là sương : sương muối, sương lạnh, sương mù phủ khắp nơi, che lấp luôn cả đoàn quân đang vội vã hành quân ngày đêm vượt ải núi rừng. Cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ “lấp” và kết thúc ở từ “mỏi”, ta như có cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân thêm phần khó khăn, vất vả. Thế nhưng trong cái gian truân ấy lại xuất hiện nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào đêm khuya, phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính trẻ.

Bức tranh thiên nhiên ấy còn hùng vĩ và dữ dội hơn cả khi suốt chặng đường hành quân của người lính chỉ toàn dốc đèo hiểm trở: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Câu thơ tạo nên cảm giác trúc trắc, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng con người. Câu thơ được nhà thơ sử dụng toàn thanh trắc lại càng tạo thêm hiệu ứng, tạo thêm chất nhạc cho bài thơ. Điệp từ “dốc” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nhấn của câu thơ rơi vài từ dốc giúp ta hình dung được độ dốc, đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc cứ thế lên cao rồi xuống thấp đang thử thách sự kiên nhẫn, dũng cảm của những người lính đi qua đây. Những con dốc cao đến độ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” làm cho độ nguy hiểm càng tăng lên. Biện pháp nhân hóa đã làm tăng hiệu quả diễn đạt cho câu thơ. Cách nói “súng ngửi trời” thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của người lính Tây Tiến, họ là những chiến binh dũng cảm đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên. Từ đó cho thấy vẻ đẹp của con người lúc này sánh ngang với tầm cao của vũ trụ. Chính vì nét hiên ngang ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi bật lên đầy thách thức :

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Hết lên cao lại xuống thấp, câu thơ tạo thành hai vế tiểu đối như bị bẻ đôi làm cho con dốc hiện lên với chiều cao, chiều sâu, rợn ngợp, chót vót. Câu thơ hoàn toàn không đề cập đến con người nhưng ta vẫn thấy rất rõ bóng người mệt mỏi, bao quanh họ là những nguy hiểm đang đe dọa dình dập. Dẫu vậy mà những người lính ấy vẫn âm thầm, kiên trì vượt qua để rồi vỡ òa trước cảnh thôn quê êm đềm phía trước :

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ được dệt lên bởi những thanh bằng như kéo dài thêm con đường hành quân của người lính nhưng lại tạo cảm giác êm ái nhẹ nhàng, không còn “khúc khuỷu”, nguy hiểm khi vượt đèo, vượt dốc. Nhà thơ Xuân diệu đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm nhạc trong miệng”. Quả thật không sai, đọc sáu câu thơ trên ta thấy rất rõ nét tài năng của nhà thơ Quang Dũng ta vừa thấy được nét đẹp dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên vừa thấy được vẻ đẹp trữ tình, đầy chất lãng mạn qua ngòi bút miêu tả ấn tượng của ông. Qua những nét vẽ bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã bày tỏ nỗi nhớ da diết của mình khi liên tưởng về những hồi ức cũ, đó là nỗi nhớ luôn hiện lên trong tâm trí ông suốt một thời gian dài.

Hết nhớ về thiên nhiên, cảnh vật nơi rừng núi nguy hiểm, Quang Dũng lại nhớ về những đồng đội cũ đã cùng ông vượt qua bao gian khổ hành quân. Cũng từ đó hình ảnh người lính lại hiện lên với bao khó khăn, gian khổ, thiếu thốn :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Bốn câu thơ đã miêu tả rõ nét sự hi sinh giữa bao gian khổ, thiếu thốn của những người lính Tây Tiến. Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Trong những gian khổ, các anh phải “dãi dầu”, có những người “không bước nữa”, đã “gục lên súng mũ bỏ quên đời” vùi thân mình nơi rừng núi âm u…Cách nói giảm nói tránh của tác giả về sự hi sinh để nói về sự hi sinh của những người lính, phần nào giảm đi sự bi lụy mà thay vào đó là chất bi tráng, hào hùng. Dù có mất mát, đau thương thì họ vẫn dũng cảm, tiến về phía trước bởi ở đó là nền độc lập, tự do của nước nhà. Đọc những câu thơ trên của nhà thơ Quang Dũng ta lại liên tưởng tới cứ như khi đọc mấy câu thơ trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:

“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!”

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)

Tây Bắc đâu chỉ có rừng núi cheo leo, nguy hiểm mà còn biết bao thách thức của núi rừng với cái vẻ hoang sơ, bí ẩn : “Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”. Biện pháp nhân hóa “cọp trêu ngươi- thác gầm thét” làm tăng thêm phần dữ dội, hoang vu, bí hiểm của núi rừng. Điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” đã gợi ra một không gian và thời gian về khuya với những nguy hiểm luôn dình dập người lính. Trên chặng đường hành quân từ Pha Luông về Mường Hịch, nguy hiểm lúc nào cũng dình dập họ nhưng ở những người lính ấy vẫn hiện lên vẻ lạc quan, hóm hỉnh, nhưng cũng rất gan dạ, kiên cường, sống hết mình vì lí tưởng cao đẹp.

Đoạn thơ kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ về những bản làng Tây Bắc thân yêu :

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Sự chuyển biến của tứ thơ còn thể hiện qua sự chuyển biến về hình ảnh. Vẫn là hình ảnh sương khói trong sáu câu thơ đầu nhưng giờ đây đã là “cơm lên khói”. Tất cả ấm lại, giờ đây sau chặng đường hành quân vất vả chỉ còn là ánh sáng, là ngọn lửa ấm áp nơi bản làng. Cụm từ “nhớ ôi” như chứa đựng tình cảm dạt dào cũng như tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Sau chặng đường hành quân vất vả, họ dừng chân và quay quần cùng với niềm vui, hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm mùi gạo mới. Tình cảm quân dân gắn kết yêu thương nhau hiện lên một cách gần gũi, chân thật qua ngòi bút của tác giả. “Mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn từ của nhà thơ Quang Dũng để chỉ vẻ đẹp của những cô thôn nữ Mai Châu xinh đẹp, đảm đang. Tất cả đã hòa quyện vào nhau để tạo nên nỗi nhớ bâng khuâng đọng lại trong lòng tác giả.

Mười bốn câu thơ đầu tiên đã để lại một ấn tượng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nhân hóa, điệp từ, phép đối cùng những động từ mạnh, từ láy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao…Tất cả đã tạo nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc qua nỗi nhớ của nhà thơ vừa dữ dội, hùng vĩ nhưng rất đỗi thơ mộng, từ đó hiện lên vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.

Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ thấm tình quân dân và cảnh chia tay trên bến sông tĩnh lặng của những người lính. Không còn là cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở nữa mà ở tám câu thơ này đều là những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng :

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Trên con đường hành quân đầy gian khổ, những người lính Tây Tiến dừng chân dựng trại và được sự đón tiếp nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng nói riêng và những người lính nói chung, không khí vui tươi của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình gắn kết quân nhân là kỉ niệm khó quên vô cùng. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng, náo nhiệt, ấm áp. Ở đây, nhà thơ đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. Đuốc hoa trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc-biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Có lẽ nhà nhà muốn gợi lên sự ấm áp, niềm vui trong lòng các chiến sĩ trẻ. Trong cuộc đời đầy ắp sự lung linh chất thơ như vậy, nhưng những nhà thơ có thể chớp lấy nó như Quang Dũng lại không nhiều.

Trong cái tưng bừng của không khí lễ hội ấy, hình ảnh những cô gái hiện lên thật lộng lẫy với những bộ ‘xiêm áo” nhiều màu sắc. Hai từ “kìa em” cùng câu hỏi tu từ “tự bao giờ” như nhấn mạnh sự ngạc nhiên và hào hứng trước vẻ đẹp của những cô sơn ca núi rừng. Đó là một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng, vẻ đẹp e ấp của những cô gái nơi đây. Tiếng khèn, tiếng nhạc lại thi nhau hòa âm, tạo cho tâm hồn người lính thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là sự lạc quan, yêu đời, là động lực giúp họ tiếp tục chiến đấu vì lí tưởng bảo vệ đất nước.

Miên man trong dòng hồi tưởng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ tiếp tục nhớ về những cảnh sắc đẹp đẽ, nên thơ nơi núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia tay trên miền sông nước hoang vắng, tĩnh lặng, có đôi nét buồn thi vị :

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

“Người đi’ là những người lính trẻ Tây Tiến, họ ra đi vào không gian buổi chiều, xung quanh đều là sương khói. “Sương ở đây không phải là “sương lấp” mà là không gian núi rừng mờ trong sương. Hình ảnh “chiều sương ấy” làm hiện lên trong ta nhiều liên tưởng về một miền kí ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Sự xuất hiện của câu hỏi tu từ với các động từ “có thấy”, “có nhớ” như khắc sâu vào trong lòng người đọc cảm giác xao xuyến khó tả, nó như gợi hỏi tới những người đồng chí, đồng đội, hoặc cũng là hỏi chính nhà thơ có nhớ tới mảnh đất đã từng vào sinh ra tử này không? Biện pháp nhân hóa “hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng nhưng vẫn rất giàu chất thơ bởi cảnh vật nơi đây đều có hồn. Hồn lau có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là tâm trạng buổi chia tay nhuốm lên cả hoa lau, cảnh vật xung quanh, nghĩa thứ hai cuộc đời người lính gắn với hoa lau, nay xa rồi nên xao xuyến, bâng khuâng.

Khung cảnh trữ tình ấy đã làm nền cho sự xuất hiện của con người “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Ở đây người đọc có thể liên tưởng tới những cô gái vùng cao duyên dáng hay những người dân với tình cảm gắn bó gần gũi với những người lính trẻ. Câu thơ cuối khép lại khổ thơ là hình ảnh “hoa trôi đong đưa”như khắc sâu vào lòng người nỗi nhớ khôn nguôi.

Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất họa. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh tiếng khèn, cũng chính là tâm trạng của người lính. Hình ảnh thơ được tạo nên bởi những đường nét tài hoa, độc đáo mang chất trữ tình, lãng mạn của nhà thơ đã phần nào cho thấy tâm hồn đầy lạc quan, yêu đời của những người lính trẻ và tinh thần gắn kết quân nhân bền chặt.

Bên cạnh tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ da diết của mình về cảnh vật, đồng đội thì ở bài thơ Tây Tiến, nhà thơ còn tập trung khắc họa hình tượng người lính đầy bi tráng, oai hùng. Nếu như có hình tượng người lính mang nét đẹp chân thực như trong thơ Chính Hữu hay Nguyên Hồng thì ở đây hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng còn mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng được thể hiện qua dáng vẻ, tinh thần, lí tưởng và sự hi sinh. Và hình tượng ấy được nhà thơ tái hiện rõ nét qua khổ thơ thứ ba đầy hào hùng :

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng. Ta cũng từng bắt gặp những khó khăn của người lính trong thơ Tố Hữu:

“Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”

Bởi xuất thân từ những học sinh, sinh viên lại ra đi từ Hà Nội, chính vì vậy mà trong cuộc sống gian khổ những người chiến sĩ trẻ ấy vẫn hiện lên những tâm hồn mang nhiều nét “mộng và mơ”. Họ đều là những chàng trai Hà Thành lạc quan, yêu đời nhưng vô cùng dũng cảm, luôn hướng về lí tưởng cao đẹp “khi đất nước cần, chúng tôi sẵn sàng đứng lên”. Hình ảnh “mắt trừng” gợi lên cho người đọc liên tưởng về đôi mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù của những người lính trẻ. Đôi mắt ấy gửi mộng qua biên giới, đôi mắt ấy thao thức nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội thơm mùi hoa sữa. Điều đó cho ta thấy rằng những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng gọi của tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn.

Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã nêu bật lên lí tưởng của những người lính “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm rơi vào chữ mồ, gợi nên ý niệm về cái chết. Ngoài ra tác giả còn khéo léo sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” không chỉ gợi nên cảm giác cổ kính mà còn gợi cả không gian xa xôi nơi biên cương hẻo lánh, nơi những chiến sĩ trẻ làm nhiệm vụ. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết một cách chân thực không né tránh đúng như nhà thơ Trần Lê Văn từng nhận xét “Tây Tiến phảng phất nét buồn đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời xanh tuổi trẻ biết báo hiệu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh” cất lên đầy hào khí đồng thời mang vẻ đẹp của lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó:

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về…”

Hai câu thơ cuối, nhà thơ đã viết về sự hi sinh bi tráng của người lính trên chiến trường

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa cho sự hi sinh quên mình của người lính. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng cũng từng tâm sự rằng “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là theo cách nói của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Con sông Mã lại hiện lên như một chứng nhân lịch sử, người bạn đồng hành của người lính Tây Tiến, nhưng giờ đây nó như đang cảm thương, gầm lên khúc độc hành đưa tiễn những người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.

Đoạn thơ cuối cũng như khép lại nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ, tác gải cũng thể hiện tình cảm của mình về đoàn quân Tây Tiến, đồng đội trong những năm tháng gắn bó chiến đấu một cách đầu trân trọng. Đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Hai câu thơ đầu đã thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Qua cách nói “một chia phôi”, “không hẹn trước”, tác giả đã thể hiện sự thương mến, cảm phục và nỗi xót xa về những người vệ quốc quân ra đi không trở về. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình.

Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

“Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại. Câu thơ với sự kết hợp linh hoạt các thanh bằng như một bản hòa âm đầy da diết về cuộc đời người lính, dù họ ngã xuống ở đâu thì vẫn sẽ có những người đồng đội tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Câu thơ còn vang vọng âm hưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” …

Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi tráng, hào hùng bài thơ Tây Tiến đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa mang vẻ hào hùng nhưng đầy lạc quan, yêu đời. Họ là những người lính trẻ mang trong mình lí tưởng cao đẹp, quyết hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Bài thơ còn thể hiện tài hoa trong cách sử dụng các động từ mạnh, các từ láy mang tính biểu cảm cao và các biện pháp điệp từ, nhân hóa. Đọc bài thơ ta liền nhớ tới những câu thơ về người lính Tây Tiến được nhà thơ Giang Nam viết

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Sống mãi muôn đời với núi sông

Quả đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận xét “Quang Dũng đã đem đến tượng đài người lính Tây Tiến giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc …”. Vừa thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên Tây Bắc oai hùng, dữ dội, nhà thơ còn khắc họa lên hình tượng người lính đầy bi tráng, nhưng cũng rất đỗi lạc quan, yêu đời. Tây Tiến là đóa hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, là một bài thơ vừa có giá trị về nội dung và nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư về sự hi sinh quên mình của những con người dũng cảm, kiên cường ấy đến mãi muôn đời sau.

Bài mẫu số 3: Phân tích đoạn thơ thứ 2 Tây Tiến

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm “Tây Tiến”. Ông sáng tác bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể hiện tinh tế qua đoạn thơ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tây Tiến là tên đoàn quân được thành lập năm 1947, chiến đấu ở vùng Tây Bắc. Đa số là thanh niên tri thức Hà Nội. Ban đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng để đảm bảo tính hàm súc cho tác phẩm thì Quang Dũng đã đổi tên thành “Tây Tiến”. Dấu ấn hội họa và âm nhạc được tác giả thể hiện nổi bật ở những kỉ niệm đẹp và buổi chia li trong miền nhớ của ông

Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh doanh trại lung linh, tưng bừng, vui như đi trẩy hội.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

Thông thường khi nhắc đến “doanh trại” thì ta sẽ nghĩ đến không khí nghiêm túc, khô khan của các anh chiến sĩ, bộ đội. Nhưng không, trong thơ Quang Dũng hình ảnh doanh trại hiện lên cùng với hội đuốc hoa cùng với động từ “bừng” tạo nên không khí vui tươi, sôi động. Ở đây các anh chiến sĩ được thoải mái, thư giãn sau những chặng đường hành quân khó khăn, mệt mỏi. Động từ “bừng” như làm rực sáng cả câu thơ, như ánh sáng tỏa sáng rực rỡ, mạnh mẽ khắp doanh trại. Cụm từ cảm thán ” kìa em” vang lên với sự ngỡ ngàng, kinh ngạc đồng thời lại đầy cảm xúc dạt dào, trìu mến. Các cô gái Tây Bắc với xiêm y lộng lẫy, đẹp đẽ bước ra mang đến hương sắc ngọt ngào, nhẹ nhàng tạo cho doanh trại một không khí đầy tươi vui, hạnh phúc.Một đêm hội tràn ngập ánh sáng, chan hòa âm nhạc và vũ điệu, thắm thiết tình quân dân

Tiếp đến hai câu thơ sau mang đến bản sắc dân tộc vùng Tây Bắc:

“Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại nhạc cụ này trong các dịp lễ hội và các chàng trai, cô gái thì múa hoặc hát theo tiếng nhạc ấy. Tác giả đã đem vào thơ ca hình ảnh nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc ở Tây Bắc. “Man điệu” ở đây chỉ điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc xứ này. Tính từ “e ấp” thể hiện sự thẹn thùng, ngại ngùng của các cô thiếu nữ dân tộc đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng của các cô gái. Tiếng nhạc hòa cùng các điệu múa nhẹ nhàng, uyển chuyển của các cô gái làm lay động, say mê các chàng thanh niên tri thức Hà Nội. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng đường đầy khó khăn cùng với ý chí “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của mỗi người chiến sĩ. Trong không khí ấy, tâm hồn của người chiến sĩ hướng “về Viên Chăn xây hồn thơ”. Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa và hồn thơ lãng mạng của Quang Dũng.

Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh buổi chiều chia ly ở Tây Bắc, vừa tả thực vừa tả mộng tạo nên không gian huyền ảo, mộng mơ:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ”

Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, không còn mạnh mẽ, khúc khuỷu, thăm thẳm mà lại chuyển sang nên thơ, mơ mộng hơn. Đặc biệt đại từ “ấy” tạo nên nét độc đáo cho buổi chiều sương, như nhắc lại kỉ niệm những buổi chiều sương đẹp đẽ, lung linh trong miền ký ức. Sương ở đây không phải là sương che lấp, che phủ mà sương thể hiện nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người đi Châu Mộc vào buổi chiều sương. Sau này, cùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nên thơ.đó, Tố Hữu đã có hai câu thơ ngợi tả cảnh đẹp ở Châu Mộc:

“Nông trường Châu Mộc như hoa nở

Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca”

Còn buổi chiều của thơ Quang Dũng, ông miêu tả hình ảnh “hồn lau” tả dáng lau uyển chuyển, mỏng manh qua màn sương, đồng thời như mang đến làn gió thổi vào từng cây cỏ để tạo nên không gian thiên nhiên đầy sức sống, mãnh liệt.

Hai câu thơ cuối thể hiện hình ảnh con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ lả lướt, thướt tha hòa cùng với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. Điệp ngữ “có nhớ- có thấy” làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ cuộn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút pháp gợi mà không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích

Với ngòi bút hào hoa, tinh tế không kém phần thơ mộng và đầy lãng mạng, Quang Dũng đã phác họa nên bức tranh những kỉ niệm đẹp đầy lung linh, huyền ảo và hình ảnh buổi chiều sương mang đậm sự lưu luyến, nhớ nhung da diết. Chất họa và nhạc trong thơ ca Quang Dũng được bộc lộ hết ở khổ thơ trên.

Tây Tiến quả là tác phẩm để đời của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa mang tính cách mạng lại còn đậm nét trữ tình nghệ thuật. Mang đến cho người đọc một thế giới khác của Tây Bắc, lung linh hơn, thơ mộng hơn đồng thời như cuốn nhật ký ghi lại những kỉ niệm đẹp nơi đây, chứa mãi trong miền ký ức, trong tim của tác giả.

Bài mẫu số 4: Phân tích đoạn thơ thứ 3 Tây Tiến

Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận.

Hai câu thơ mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:

Áo bào thay chiếu anh về đất.

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Dàn bài chi tiết phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Dàn bài phân tích bài thơ Tây Tiến toàn bài

MB: gt tác giả, tác phẩm,nd bài thơ

TB: -nêu hcst và gt qua về binh đoàn Tây Tiến

-Đoạn 1: nỗi nhớ về con đường hành quân đầy gian khổ của ng lính Tây Tiến

2 câu đầu: tác giả nhớ về sông Mã đầu tiên vì sông mã là dòng sông chạy dài suốt chiều dài miền Tây Bắc, là chứng nhân lịch sử dõi theo bc đường hành quân của ng lính

Tây tiến ơi : tiếng gọi đầy tha thiết ngọt ngào=> TT trở thành một phần kí ức k thể quên trong tâm trí nhà thơ

Đối tượng của nỗi nhớ: rừng núi: địa bàn hđ

+ nhớ chơi vơi: chơi với là cảm giác vô hình vô lượng , một mk giữa khoảng k rộng lớn.=> nỗi nhớ đã diết, k nguôi ngoai

– nhớ các địa danh :Sài Khao,Mường Lát: vừa trắc trở vừa thơ mộng

-Câu “ dốc lên ….ngàn thước xuống” : nt đối lập + từ láy + thanh Trắc tạo thế sự gập ghềnh, trúc trắc diễn tả sự nguy hiểm của ng lính trên con đg hành quân

-câu “ nhà ai…xa khơi” toàn thanh bằng khiến câu thơ như 1 nhịp thở, một phủ nghỉ chân của ng lính.Ng lính đk thư giãn ngắm sương rừng mưa núi

-Ng lính đk ăn bữa cơm đầm ấm tình quân dân ở mai châu

Đoạn 2: kỉ niệm về những đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ đuốc hoa

– chú ý các từ: bừng lên, đuốc hoa, kìa e, chiếu sương ấy, hồn lau, dáng ng trên độc mộc , hoa đong đưa

Đoạn 3: bức tượng đài bi tránh và bất tử về ng lính Tây tiến

– ngoại hình

– tâm hồn

-lí tưởng

– cái chết

_ Nghệ thuật chung: bài thơ có sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng, có đường nét, yếu tố của hội hoạ, thi ca

KB: kđ giá trị bài thơ trong nền vh

Dàn bài phân tích bài thơ Tây Tiền toàn bài

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến.

II. Thân bài

1. Nỗi nhớ của Quang Dũng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và Tây Tiến anh hùng

– “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”: Sông Mã là con sông quen thuộc của núi rừng Tây Bắc. Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến con sông này cho thấy nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Kết hợp với cụm từ “Tây Tiến” là chỉ một đoàn quân cùng với từ “ơi” lại vang lên thật trìu mến.

– “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”: cảm xúc chủ đạo của bài thơ, diễn tả nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng.

– Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông”: gợi nhớ về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút.

– “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm: Những con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm để rồi họ vẫn phải cố gắng vượt qua.

– “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.

– Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ.

– “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”: tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn.

– “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”: Người lính dừng chân bên xóm làng sau những đêm hành quân gian khổ, mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.

2. Đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo

a. Đêm vui liên hoan văn nghệ:

– Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc.

– Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.

– Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.

b. Bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:

– Thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo.

– “Hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc.

3. Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát

– Hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:

  • “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.
  • “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng.

=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. – Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng

  • “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm
  • “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch.

– Sự mất mát hy sinh của người lính:

  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.
  • “Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.
  • Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.

4. Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể nào phai

– “Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi”: sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc.

– “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”: Gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào phai mờ.

III. Kết bài

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.

Dàn bài phân tích khổ 1 bài thơ Tây Tiến

Mở bài:

– Giới thiệu đoạn thơ

Thân bài:

Về từ ngữ:

– Trong 8 câu thơ đầu, từ nỗi nhớ chơi vơi về dòng sông Mã, tác giả đã làm sống dậy một thời kháng chiến gian khổ, hào hùng.

+ Điệp từ “nhớ” : nhấn mạnh nỗi nhớ.

+ Nhớ “chơi vơi”: nỗi nhớ triền miên, da diết, vô định

Về hình ảnh:

– Sông Mã: Con sông theo suốt bước đường hành quân của người lính.

– Rừng núi: Thiên nhiên gắn bó và luôn đồng hành cùng với người lính.

=> Qua đây, tác giả muốn thể hiện nỗi nhớ mênh mông, tha thiết tạo nên âm hưởng của bài thơ, tạo nên chất riêng của bài thơ.

– Các địa danh đã được sử dụng: Sài Khao, Mường Lát; con đường hành quân được miêu tả bằng những từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” thể hiện sự gian khổ, nguy hiểm trên đường hành quân.

– Sự hi sinh bi tráng được thể hiện trong 4 câu thơ tiếp theo qua các từ ngữ: anh bạn; không bước nữa; bỏ quên đời và sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương. Bên cạnh đó khắc họa nên một bức tranh rừng núi đầy hoang sơ và nguy hiểm qua các từ ngữ: thời gian (chiều chiều, đêm đêm); không gian (thác gầm thét, cọp trên người).

– Hai câu cuối thể hiện hình ảnh khói cơm nếp Mai Châu ùa về trong tâm trí khiến cho nỗi nhớ càng đong đầy hơn với những con người Tây Bắc hồn hậu, những tấm lòng thơm thảo.

– Nghệ thuật:

+ Nghệ thuật tương phản, cường điệu

+ Từ láy có giá trị gợi hình gợi cảm

+ Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn

=>Đoạn thơ đã dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng.

Kết bài

  • Bạn đang xem bài viết tại chuyên mục hỏi đáp: Môn văn

Viết một bình luận

Câu hỏi mới