Phân tích Ngươi lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân môn văn lớp 12

Bài văn Phân tích Ngươi lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân lớp 12 gồm các bài tham khảo sau:

  • Phân tích hình tượng Ngươi lái đò sông Đà (3 bài tham khảo)
  • Phân tích vẻ đẹp tài hoa trí dũng của người lái đò sông Đà (1 bài tham khảo)
  • Dàn ý chi tiết phân tích hình tượng người lái đò sông Đà (3 dàn ý tham khảo)

Bài mấu số 1: Phân tích hình tượng Ngươi lái đò sông Đà

Văn học muôn đời là nỗi hoài vọng, nỗi khát khao của nhân loại hướng về cái Đẹp. Tuy nhiên ở mỗi người nghệ sĩ quan niệm về cái Đẹp lại khác nhau. Nam Cao cho rằng cái Đẹp là cái Chân, với Nguyên Hồng cái Đẹp gắn với cái thiện, Nguyễn Ngọc thì say sưa truy tìm cái đẹp trong cái Hùng, duy chỉ có Nguyễn Tuân “suốt đời đi tìm cái đẹp” trong nghĩa thuần khiết của nghệ thuật. Tác phẩm của | Nguyễn Tuân là bản hợp ca hòa tấu của cái Đẹp và bản thân Nguyễn Tuân là “một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Trong cuộc sống Nguyễn Tuân không giống với ai và trong văn chương cũng thế. Ông không chỉ là người sống hết lòng với cuộc đời mà còn nặng nợ với nghiệp văn, coi đó là một thứ “lao động nghiêm túc và khổ hạnh”, là sự vắt kiệt tinh hoa và tâm huyết như con ong làm mật, như con trai xót lòng tạo ngọt cho đời. Một trong những bức “Tờ hoa” diễm lệ mà Nguyễn Tuân chưng cất từ tình yêu, tài năng và công phu chữ nghĩa của mình là tùy bút “NLĐSD”. Độc đáo trong ngòi bút Nguyễn Tuân được thể hiện rất rõ trong việc xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà trong thiên tùy bút cùng tên của ông.

Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn “là cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái tôi trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành trang hoa lộng lẫy, yêu kiều, vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc. Được biết tới trong nền VHVN với hình ảnh của một người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc, dùng cả cuộc đời của mình để theo đuổi chủ nghĩa xê dịch, đi một lối đi riêng biệt trong văn chương, Nguyễn Tuân đã bê nguyên bản ngã của đời mình in đậm lên từng tác phẩm, từng hình tượng. Và ông lái đò là một hình tượng như vậy. Tác phẩm “NLĐSĐ được rút ra từ tập tùy bút “Sông Đà” – thành quả của chuyến đi thực tế lên miền Tây Bắc của nhà văn để tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Kể từ tác phẩm ra đời, nhiều nghệ sĩ cũng đã tìm đến với sông Đà nhưng có lẽ chưa ai vượt được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sống nước ấy thành “ một niền gợi cảm mênh mang”. Đó thực sự là một trang viết in đậm một bản ngã độc đáo, một cái tôi nhạy cảm, một óc tượng tượng phong phú và khả năng dùng từ của một bậc “phù thủy ngôn từ”. Tất cả điều đó được thể hiện ở đoạn văn miêu tả hình tượng ông Đò.

Như lời nhận xét mở đầu trang văn, nếu vẻ đẹp thiên nhiên đối với Nguyễn Tuân là “vàng” thì phải vẻ đẹp của con người là “vàng 10” bội phần quý giá. Chất vàng mười ấy đã được Nguyễn Tuân tìm thấy trong hình ảnh người lái đò bình dị mà rất đỗi anh hùng. Lật từng trang viết của Nguyễn Tuân ta biết được ông đò sinh ra ở Lai Châu và lớn lên bên bờ sông Đà, đã gắn bó phần lớn cuộc đời của mình với sông Đà. Sông nước là quê hương, là một phần máu thịt đã trở thành tình yêu, thành ý nghĩa của cuộc đời ông. Là nhân vật trung tâm của cả thiên tùy bút nhưng Nguyễn Tuân không gọi người lái đò bằng bất cứ cái tên cụ thể nào mà ông được gọi tên bằng chính nghề nghiệp của mình. Điều này đã tạo nên sức khái quát cho hình tượng. Ông chính là đại diện cho đông đảo người lao động ở vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ Quốc đang từng ngày từng giờ lao động hăng say cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước. Công việc đó đối với họ đã trở thành lẽ sống, thành đam mê.

Trong cảm hứng ngợi ca đậm chất lãng mạn, Nguyễn Tuân đã vẽ lên ngoại hình người lái đò vừa phảng phất bóng dáng của một người anh hùng trận mạc vừa mang vẻ đẹp dung dị đời thường. Ông đò Lai Châu năm nay đã gần 70 tuổi, ông làm nghề lái đò đã được 10 năm và thôi làm đò đã đôi chục năm nay. Mặc dù đã nghỉ hưu và ở độ tuổi xưa nay hiếm nhưng ông vẫn giữ nguyên dáng vẻ khỏe khoắn, tráng kiện với “cái đầu quoắc được đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “đôi cánh tay vô cùng trẻ trung tới mức nếu bịt cái đầu bạc đang nói đi không ai không lầm mà tưởng rằng mình đang đứng trước một chàng trai”. Cuộc sống lao động và chiến đấu trên sông nước đã tôi luyện cho ông một thân thể cường tráng vượt tuổi tác và cũng chính cuộc sống ấy đã in hằn lên thân thể ông những dấu ấn nghề nghiệp không thể trộn lẫn: “tay ông lêu nghêu như cái sào”, “chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuynh gò lại như kẹp lấy cái quần lái tưởng tượng”, giọng ông ào ào như tiếng nước trên mặt sông, “nhỡn giới ông vòi voi như lúc nào cũng mong một cái tên xa trong sương mù”. Điều đó đã mang đến vẻ đẹp của những người lao động đời thường. Và đặc biệt ở bên ngực ông mầm lên một khoang củ nâu – dấu vết đầu con sào để lại mà bằng cái nhìn rất mực trân trọng, Nguyễn Tuân đã tôn vinh nó là “hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà”. Có thể thấy Nguyễn Tuân đã chạm khắc nhân vật của mình bằng những đường nét sắc sảo và ấn tượng. Phải có vốn sống và sự hiểu biết thường tận về người lao động và nghề chèo đò thì nhà văn mới có những chi tiết của chính xác của sống động đến thế.

Ông lái đò hiện lên trên trang văn của Nguyễn Tuân như là một người lao động trí dũng với một niềm đam mê sông nước mãnh liệt và chính đam mê ấy đã giúp ông đò chiến thắng thiên nhiên hung bạo. Với hơn 10 năm lái đò, hơn 100 lần cầm lái ông đò đã trở thành một tay lái lão luyện am hiểu tường tận về dòng sông của mình. Trí nhớ của ông đã được rèn luyện cao độ để nhớ tỉ mỉ như đanh đóng cột vào làm tất cả các luồng nước dữ. Sông Đà như một thiên trường ca mà ông đã “thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Cuộc sống gắn bó với sông nước đã trở thành niềm đam mê và việc vượt thác đã trở thành lẽ

sống của ông. Ông Đồ chỉ thấy con sông đậm đà từ chợ Bờ trở ngược. Về xuôi, hết đá, hết thác, ông lại thấy dại tay, dại chân và buồn ngủ.

Là nhà văn uyên bác, tài hoa Nguyễn Tuân luôn tiếp cận sự vật và con người ở phương diện văn hóa và thẩm mỹ để từ đó say mê truy tìm cái đẹp còn ẩn giật. Với quan điểm nghệ thuật như thế nhà văn đã xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà vừa như một người anh hùng trên sông nước vừa như một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Cái Hùng và cái Mĩ hòa quyện làm nên vẻ đẹp đặc sắc của nhân vật. Toàn bộ vẻ đẹp đó đã bộc lộ trọn vẹn khi đặt nhân vật vào một thử thách có tính chất sinh tử. Đó là trận quyết đấu trên chiến trường Đà Giang. Nghệ thuật đối lập, tương phản được sử dụng hiệu quả để nâng cao tầm vóc con người: một bên là “dòng thác hùm beo, hồng hộc tế mạch trên sông đá”, “một bên là người lái đò sông Đà trên chiếc thuyền đuổi én mỏng manh với vũ khí là cán chèo trên cánh tay mình”. Cuộc chiến thoạt tưởng không cân sức nhưng bằng tài năng và lòng dũng cảm con người đã buộc thiên nhiên phải quy hàng.

Hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên trong tâm trí người đọc như một dũng tướng trong cuộc vượt trùng vị thạch trận. Trong cuộc vượt thác này nhà văn đã sử dụng nhiều ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, đã tung ra cả kho ngôn ngữ giàu có, đã vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành khác nhau đặc biệt là ngành hội họa, điện ảnh, quân sự để giúp người đọc hình dung đó không đơn thuần là một cuộc vượt thác mà là một cuộc chiến đấu cuộc “chiến tranh”, một trận thủy chiến trên sông nước và giang. Trong trận thủy chiến, đã có những lúc thác nước sông Đà mưu mô xảo quyệt tới mức như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyên. Ông lái đò lúc bấy giờ đã bị thương vẫn nhất định giữ lấy mái chèo, hai chân kẹp chặt buồng lái, với ông “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cũng như cưỡi hổ”. Ông “nắm chặt lấy bờm sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá”. Tuy nhiên gian nan mới tỏ mặt anh hào” giữa một trời nước vang trời thanh la não bạt, ta vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn của người cầm lái. Ông lái đò như một vị chiến tướng tài ba, dù đặt vào tình thế hiểm nguy nhưng vẫn không hề nao núng, không hề mất đi sự bình tĩnh đến kì lạ và có sức mạnh chịu đựng vô song. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng đã cho thấy được khí phách vẻ đẹp của người lái đò. Nhưng có lẽ khoảnh khắc đẹp nhất của người lái đò lại nằm ở khúc sau của trận chiến cam go ấy. Sau trùng vy thứ nhất, con sông đã thay đổi chiến thuật. Vòng đầu mở ra năm của trận, trong đây có bốn cửa tử, một cửa sinh nằm ở phía tả, vòng hai nhiều cửa tử hơn và cửa sinh lại chuyển sang phía hữu, sang đến vòng cuối, ít cửa hơn, hai bên tả hữu đều là luống chết chỉ còn một lối đi ở chính giữa. Ta thấy rõ Nguyễn Tuân đã tung một đạo binh ngôn từ hùng hậu để miêu tả cho thật hấp dẫn và hùng tráng cuộc thuỷ chiến mà ở đó ông đò đã phá tan ba cửa ải nước trùng vị thạch trận mà sông Đà bày ra. Con thuyền mong manh đối diện với dòng nước “ hung bạo đang hồng hộc tế mạnh” trong khi đó ông đò với một sự dũng cảm và tài trí phi thường đã cứng tay chèo vượt qua hết trùng vị này đến trùng vị khác, giành thế chủ động bởi ông đã nắm chắc trong lòng bàn tay bình pháp của thần sống thần đá, thuộc lòng từng dấu chấm than, chấm câu và đoạn xuống dòng. Ông đò cưỡi lên thác ghềnh sông Đà như một lão tướng dày dặn kinh nghiệm, đè sắn lên sóng, nắm chặt bờm sóng mà thuần phục dòng sông hung bạo. Chính ông đã khiến cho viên đá tướng mặt mày tiu nghỉu xanh lè thất vọng, chính ông tài trí và kinh nghiệm của mình đã chỉ huy con thuyền “như một mũi tên tre đâm xuyên qua hơi nước”, sông Đà trở thành một khúc tráng ca ngợi ca tài trí của con người.

Với Nguyễn Tuân chữ tài hoa không chỉ để dùng cho người làm nghệ thuật mà còn được dùng để tôn vinh những con người say mê lão luyện trong công việc của mình. Ở ông đò kĩ thuật vượt thác được nâng lên là nghệ thuật. Ông điều khiển con đò uốn lượn giữa dòng nước sông Đà như người họa sĩ điều khiển từng đường cọ, như nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc. Với người ngoài đó quả là một chiến thắng phi thường nhưng với ông lão đó lại là chuyện bình thường không đáng kể. Kết thúc cuộc chiến người lái đò không bán thêm một lời nào về chiến thắng vừa qua nơi cửa nước mà chỉ bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, những cái hầm cá. Chỉ bàn về sự giàu đẹp trù phú của quê hương, đất nước. Chính phong thái ung dung thanh thản điềm nhiên của người lái đò đã gợi cho người đọc nghĩ tới người nghệ sĩ chân chính sau khi vắt kiệt sức mình để tạo nên tác phẩm nhưng không mấy ai tự tán dương thành quả lao động của mình. Và Nguyễn Tuân đưa ra lời nhận xét cuộc sống của họ: “Họ ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… họ nghĩ thế đến lúc ngưng chèo”.

– Trong bài “Nguyễn Tuân – người săn tìm cái đẹp”, Nguyễn Thành nhận xét: Văn chương Nguyễn Tuân có ý nghĩa bất biến từ trước cách mạng đến sau cách mạng tháng Tám đó là tư tưởng suốt đời săn tìm cái tài hoa của con người. Nhưng nếu trước cách mạng những nhân vật mà nhà văn ca ngợi chỉ là những nhân vật hiếm hoi hay đặc tuyển còn vương sót lại thì sau cách mạng đặc biệt với tập tùy bút sông Đà Nguyễn Tuân đã tìm thấy một suối nguồn của cái đẹp phong phú và giàu có hơn. Cái đẹp không có không chỉ có ở con người hiếm hoi kiệt xuất mà còn có ở đại chúng nhân dân. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân còn gửi gắm giá trị con người. Cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng có ở khắp mọi nơi không chỉ ở những kỳ tích mà còn ở việc làm bình dị. Sự anh hùng không chỉ ở nơi mặt trận máu chảy đầu rơi mà còn diễn ra trong lao động. Nhờ lao động nhờ niềm đam mê cháy bỏng với nghề nghiệp con người hoàn toàn có thể viết nên thiên huyền thoại cho cuộc đời mình. Con người dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, địa vị ra sao nếu hết lòng cho công việc thì đều đáng trọng, tôn vinh.

       Qua việu miêu tả người lái đò, ta thấy rõ phong cách bút kí tài hoa của nhà văn họ Nguyên, tài hoa uyên bác. Tài hoa là khả năng phô bày một kho ngôn ngữ cực kì phong phú được sử dụng điêu luyện gây hứng thú bất ngờ. Uyên bác thể hiện ở một kho kiến thức rất rộng lớn được phối hợp tài tình khi miêu tả. Điều này khiên văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp sang trọng của sự tổng hoà văn hoá. Đó là lịch sử, địa lý, điện ảnh, hội hoạ, âm nhạc, quân sự, võ thuật,… Nghệ thuật tả một cuộc hôn chiên bằng một kho kiến thức quân sự, võ thuật rất ấn tượng phong phú với cả một hệ thống thuật ngữ khái niệm rút từ binh pháp, cửa tử,cửa sinh, đánh vụ hôn, đánh du kích, đánh giáp lá cà… gợi bao hứng thú thẩm mỹ đa dạng, mới lạ cho người đọc. Nhân vật của Nguyễn Tuân , vì vậy luôn được đặt trong những tình huống éo le xưa nay chưa từng có, và có ở chính lúc ấy , họ càng thể hiện được cái phi thường độc đáo của mình.

Văn giới đã từng coi Nguyễn Tuân là một thứ “định nghĩa về người nghệ sĩ”. Bản thân ông đã từng được tặng thưởng nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng con đường để đạt được vị trí vinh quang đó với Nguyễn Tuân thật gian nan. Đó là cuộc đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ một niềm tin: Cái đẹp – ấy chính là mục đích của nghệ thuật, đi tìm và diễn tả cái đẹp là lẽ sống của người nghệ sĩ. Với tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà” Nguyễn Tuân đã đi đến thế giới của cái Đẹp tuyệt đích: cái Đẹp của thiên nhiên, cái Đẹp của con người cùng hòa điệu trong cái Đẹp của văn chương.

Bài mẫu số 2: Phân tích hình tượng người lái đò trong tác phẩm người lái đò sông đà

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.

Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.

Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Bài mẫu số 3: Phân tích hình tượng người lái đò sống Đà

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.

Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.

Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.

Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.

Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.

Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.

Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.

Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.

Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kĩ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…

Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.

Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.

Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!

Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.

Bài mẫu số 4: Phân tích vẻ đẹp tài hoa trí dũng của người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông cũng là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở tùy bút. Tác phẩm này được in trong tập tùy bút Sông Đà, xuất bản lần đầu năm 1960, tất cả gồm mười lăm bài tùy bút. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại cho tác giả nguồn cảm hứng sáng tạo để viết nên thiên tùy bút đặc sắc này nhằm ca ngợi những người lao động mới đang cống hiến cho công cuộc tái thiết, dựng xây đất nước. 

     Tuỳ bút Người lái đò sông Đà được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà”, gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

     Trước hết, Người lái đò sông Đà là một hình tượng về người lao động mới trong giai đoạn kiến thiết và dựng xây đất nước. Trong cuộc chiến với thiên nhiên khốc liệt, ông lái đò đã bộc lộ tất cả khả năng tuyệt vời của mình, nhất là sự tài trí và lòng dũng cảm. Ý kiến thứ hai lại chú ý đến sự gần gữi, thân quen, dễ đi vào lòng người của ông lái đò. Ông lái đò được miêu tả như một người lao động kiên cường lại vừa như một nghệ sĩ tài hoa của sống nước, rất mực điệu nghệ trong công việc của mình. Thế nhưng sau cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên dữ dội, họ trở về với cuộc đời thường “giản dị và bình tâm”, hòa lẫn vô danh vào triệu triệu con người đang “đi tới” với đôi tay như “đôi cánh bay lên” và bàn chân mạnh mẽ “đạp bùn không sợ cá loài sên”. Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

     Người lái đò có một trí nhớ tuyệt vời về những luồng nước và những con thác hiểm trở. Ông lái đò “đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”, “nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà” nên trước thác ghềnh hung bạo, ông vẫn bình tĩnh điều khiển thuyền an toàn. Sở dĩ ông lái đò có sự hiểu biết sâu sắc cùng với những kinh nghiệm quý báu là do ông đã xuôi ngược nhiều lần trên sông Đà. Ống lái đò là người thích phiêu lưu mạo hiểm. Vì vậy tác giả đã chú ý miêu tả cuộc chiến đấu của người lái đò với sóng nước sông Đà. Trong cuộc chiến đấu vượt qua bao vòng vây của thác ghềnh hung bạo, người đọc đã thấy được sự dũng cảm, mưu trí và điêu luyện, thuần thục trong việc điều khiển con thuyền của người lái đò.Vòng vây này được tác giả miêu tả dài nhất. Người lái đò phải đối mặt cùng “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” với những hòn đá hung hãn, ngỗ ngược đang mai phục từ ngàn năm nay chực chờ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Đá dàn bày thạch trận “ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền” với hàng tiền vệ “giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa” cho tuyến hai “đánh khuýp quật vu hối lại”, nếu thoát qua thì đã có tuyến ba gồm bao nhiêu “boong-ke chìm và pháo đài nổi” quyết tâm “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng  thủy thủ ngay ở chân thác”.

     Có những hòn đá được nhà văn miêu tả hệt như những tên tướng giặc kiêu căng hợm hĩnh phối hợp cùng “nước thác reo hò” như một đội quân liều mạng đầy sát khí sẵn sàng ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo” của người lái đò, mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “đội cả thuyền lên”, nhằm vào chỗ hiểm tấn công liên tiếp với lối “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”. Cảnh tượng lúc bấy giờ cũng thật tráng lệ khi trong khoảng khắc mặt sông “lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đối diện với hiểm nguy, người lái đò vẫn hết sức bình tĩnh, hiên ngang như một tướng soái phóng thẳng thuyền vào kẻ thù. Trước những đòn thủ tàn độc của đối phương ông đã “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “giữ mái chèo khỏi bị hất lên” và trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, người ta vẫn nghe thấy “tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái” đang sẵn sàng đối mặt, chiến đấu và chiến thắng lũ giặc đá đông đảo, đầy chủ động, hiểm ác, ranh ma.

     Nếu như ở vòng vây thứ nhất sông nước nham hiểm đã mở ra bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lại nằm “lập lờ ở phía tả ngạn con sông” thì ở vòng vây thứ hai này, sông Đà đã mở thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền và cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Ghê gớm hơn, đang chờ đón ông chính là “dòng hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” với “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Người lái đò tỏ ra không hề sợ hãi bởi vì ông vốn giàu kinh nghiệm và nắm chắc qui luật hoạt động của nước thác cũng như địa hình nơi đây. Thật táo bạo, với đôi bàn tay linh hoạt, tài hoa của mình ông đã khéo léo điều khiển con thuyền “bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông lái đò lúc “cưỡi lên thác”, lúc “nắm chặt được cái bờm sóng”, lúc thì “ghì cương lái”, lúc thì ống tránh mà “rảo bơi chèo lên”, lúc thì “đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”.

     Cuối cùng, ông đã chiến thắng cái lũ đá lúc này đang “tiêu nghỉu cái mặt xanh lè” vì thất vọng. Vòng vây thứ ba nguy hiểm hơn cả bởi vì “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, cái luồng sống ở vòng vây này lại “nằm ngay giữa bọn hậu vệ của con thác”. Nhưng ống lai đò cứ anh dũng phóng thẳng thuyền, chọc thủng vào cửa giữa đó. Người lái đò rất linh hoạt điều khiển “thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”, qua bao nhiêu cửa “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.

     Trước thác ghềnh hung bạo, ông lái đò dũng cảm, táo bạo, liều lĩnh, thế nhưng khi vượt qua thì tất cả đều trở thành bình thường “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Tác giả đã miêu tả phong thái ung dung của những người lái đò khi họ “đót lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá đầm xanh… cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Cuộc sống của họ thường nhật phải đối diện với thiên nhiên khốc liệt, “ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác” cho nên với họ tất cả đều “không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Họ đã chiến thắng trong cuộc chiến không cân sức với thiên nhiên nhờ kinh nghiêm, sự ngoan cường, ý chí quyết tâm. Tất cả những điều đó đã đưa họ đến thắng lợi huy hoàng, tô đậm cho khúc tráng ca về sự nghiệp lao động vinh quang của con người mới.

     Hai ý kiến đúng, đã bổ sung cho nhau để hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất về ý nghĩa của hình tượng này; giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thía hơn ý tưởng nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp của nhân vật với những so sánh, ví von, liên tưởng độc đáo, bất ngờ và rất thú bị; tư tưởng phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả gân guốc, khi thì chậm rãi trữ tình. Khi khắc họa hình tượng này, Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình. Nhà văn tiếp cận con người trên phương diện tài hoa nghệ sĩ nên mỗi nhân vật trong tác phẩm của ông đều là những nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.

     Với sự quan sát tinh tường; trí tưởng tượng phong phú; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, độc đáo kết hợp cùng vốn kiến thức uyên bác, ngòi bút tài hoa và những cảm xúc dạt dào, say đắm thiết tha danh cho đất nước; Nguyễn Tuân đã tạo nên một áng văn trác tuyệt tác ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc trong ngày mới dựng xây. Đó đều là chất vàng mà tác giả tìm kiếm và khai phá; lấp lánh, sáng ngời quí giá như chính gương mặt của tác giả trong lịch sử văn học nước nhà.

     Qua Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

Dàn ý chi tiết phân tích người lái đò sông Đà

Dàn ý chi tiết phân tích hình tượng người lái đò sông Đà

1. Khái quát về hình tượng:

– Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước”, “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn đã chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước. Sự gắn bó với công việc không chỉ tôi luyện đôi bàn tay tài hoa mà còn hằn in những dấu ấn của công việc trên từng đường nét cơ thể ông.

– Ông lái đò xuất hiện trong tp của NT không có tên gọi cụ thể. Tgia gọi ông bằng tên gọi công việc mà ông đã gắn bó máu thịt hơn 10 năm. Sông Đà đã trở thành một phần trong cuộc sống của ông. Bởi vậy, ông hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”.

– Để làm nổi bật trí dũng và tài nghệ của người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào một hoàn cảnh khốc liệt. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

2. Cuộc chiến của người lái đò với thác dữ sông Đà:

– Tương quan lực lượng:

+ Kẻ thù mà người lái đò phải đối mặt là một trận địa đá. Những hòn đá được nhân hóa như những con thủy quái độc ác, nham hiểm “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Cả bầy thủy quái đã dàn trận để “đòi ăn chết cái thuyền”.

+ Thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp sóng, nước, đá, gió bủa vây người lái đò nhỏ bé, trên một con thuyền đơn độc và vũ khí trên tay chỉ là những chiếc cán chèo mỏng manh.

→→ Cuộc vượt thác của người lái đò không phải là một cuộc vượt thác thông thường mà là một cuộc vật lộn giữa con người nhỏ bé với các thế lực khắc nghiệt của thiên nhiên.

– Cuộc chiến giáp lá cà diễn ra với 3 cửa ải nước mà nhà văn gọi đó là những trùng vi thạch trận buộc người lái đò phải kiên cường vượt qua.

+ Trùng vi thạch trận 1:  đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”.., “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây nảy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò.

Trong thạch trận ấy, người lái đò đã rất chủ động đối mặt với sóng dữ. Trước những ngón đòn hiểm độc, trước cuộc bủa vây từ mọi phía, ông đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh và đầy mưu trí.  Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”… chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.

+ Trùng vi thạch trận 2: đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh vẫn xuất hiện liên tiếp trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng. NT đã tăng thêm sức mạnh cho sông nước Đà giang đến đỉnh điểm để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.

Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến”. Quan niệm về công việc của ông lái đò cho ta thấy ý thức sâu sắc của ông về công việc, đồng thời cũng cho ta hiểu tâm huyết, ý chí kiên cường của ông đò trong công cuộc chinh phục và làm chủ thiên nhiên. Những động từ mạnh liên tiếp kết hợp với nhịp điệu câu văn dồn dập cuốn người đọc vào cuộc chiến sinh tử đầy gay cấn, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Ở trùng vi này, ông đò hiện lên vừa như một kị sĩ tài ba vừa như một dũng tướng oai phong, lẫm liệt trên sóng nước Đà giang.

+ Trùng vi thạch trận 3: Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Trùng vi thứ 3 lắt léo, hiểm trở và đầy cạm bẫy “bên phải, bên trái đều là luồng chết”, chỉ có một luồng sinh nằm giữa bọn đá hậu vệ, giữa những tầng cửa liên tiếp, cánh mở cánh khép. Đó thực sự là một cuộc đối đầu sinh tử. Nhưng dường như, thử thách càng khốc liệt, thì tài ba, trí dũng của ông đò càng được thể hiện sắc nét. Ông lái đò đã vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”… Những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Sự tài hoa được thể hiện trong từng động tác thuần thục của người lái đò. Mỗi động tác như một đường cọ điêu luyện của người nghệ sĩ họa những nét vẽ tinh tế trên bức tranh thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.

→→ Chiến thắng của ông lái đò là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đó cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm dày dặn của những con người đã gắn bó máu thịt với nghề sông nước.

– Người lái đò sau cuộc chiến: Con sông vặn mình vào một bến cát lạnh, yên bình. Đó cũng là lúc người lái đò trở về với cuộc sống bình dị: “chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Bởi với họ, đó là cuộc sống hàng ngày, là đời thường của mình. Sự bình dị của người lái đò sau chiến thắng cho ta thấy vẻ đẹp của những con người lao động bình thường, âm thầm nhưng đã và đang làm nên những kỳ tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ.

3. Đánh giá về người lái đò:

–  Nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ đa dạng, biến ảo thần kì với những phép tu từ sinh động: …

+ Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu sắc sảo, gân guốc.

+ Kết hợp sử dụng tri thức của nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều lĩnh vực: ..…

– Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa.

4. Đánh giá chung: 

– NLĐSĐ là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc: thiên nhiên hùng vĩ, trữ tình và đầy tiềm năng, con người lao động bình dị nhưng có thể làm nên những chiến công phi thường trong cuộc chinh phục thiên nhiên.

– Tác phẩm cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc của nhà văn. Qua đoạn trích, ta thấy được sự tài hoa, uyên bác của NT. Nhà văn đã nhìn nhận và miêu tả thiên nhiên ở phương diện văn hóa, mĩ thuật, khắc họa con người ở khía cạnh tài hoa, nghệ sĩ. Vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào đã giúp nhà văn tạo nên những trang viết hết sức độc đáo, có giá trị nghệ thuật cao. TP cho ta thấy sự hiểu biết sâu rộng của nhà văn về địa lý, lịch sử, quân sự, võ thuật, điện ảnh… NT xứng đáng là một nghệ sĩ ngôn từ.

– Tp là một bằng chứng khẳng định tài năng nghệ thuật và lòng yêu đất nước được thể hiện theo cách riêng độc đáo của một nhà văn tài hoa, uyên bác…

Dàn ý chi tiết phân tích vẻ đẹp trữ tình người lái đò sông Đà

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).

Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”

“Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

Khẳng định lại vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý phân tích vẽ đẹp người lái đò sông Đà

I. Mở bài

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

II. Thân bài

1. Giới thiệu chung.

     Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” dược in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

     Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

     Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

2. Phân tích nhân vật người lái đò.

     Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”

     Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

     Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

     Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.

III. Kết bài

     Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

Viết một bình luận

Câu hỏi mới